Đám cưới là một trong những nét văn hóa đặc trưng để phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Tuy nhiên, tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh sống mà nét văn hóa này có những điểm khác biệt và tương đồng, vừa thể hiện cái chung của cả cộng đồng tộc người, vừa thể hiện cái riêng mang đậm sắc thái địa phương.

Tà Xùa là một xã vùng cao còn nhiều khó khăn của huyện Bắc Yên (tỉnh Sơn La). Xã Tà Xùa hiện có 8 bản gồm: Bản Tà Xùa A, Bản Tà Xùa C, Bản Khe Cải, Bản Mống Vàng, Bản Chung Trinh, Bản Bẹ, Bản Trò A và Bản Trò B. Toàn xã có 501 hộ, 3.049 nhân khẩu (số liệu thống kê tháng 12 năm 2017), thành phần dân tộc chủ yếu là dân tộc Mông chiếm 99,57% (trong đó người mông Đen chiếm 48,4%), còn lại người Kinh chiếm 0,43%. Do định cư ở khu vực núi cao, giao thông còn nhiều khó khăn, sự giao lưu kinh tế - văn hóa với các tộc người và địa phương bên ngoài còn nhiều hạn chế, do vậy người Mông nơi đây vẫn còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống tộc người, trong đó có phải kể đến các phong tục trong đám cưới.

Đám cưới của người Mông được thực hiện với nhiều thủ tục, nghi lễ khác nhau, trong đó bước đầu tiên là “kéo vợ”. Đây được coi là nét văn hóa đặc trưng nhất để có thể dễ dàng phân biệt giữa tộc người Mông và các tộc người khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

“Kéo vợ” trong tiếng Mông gọi là “hay pù”. Trong quan niệm của người Mông Đen ở xã Tà Xùa, một cô gái không được “kéo” về nhà chồng thì cô gái đó sẽ không được cộng đồng làng bản, dòng họ và gia đình chàng trai coi trọng. Sau này khi gia đình hoặc vợ chồng khúc mắc với nhau thì cô gái cũng sẽ không có quyền được lên tiếng vì suy nghĩ chính cô gái là người chủ động chạy theo chàng trai về nhà chồng. Vì vậy đây lại là nghi lễ bắt buộc, không cặp vợ chồng nào có thể bỏ qua.

Người Mông Đen thường tổ chức kéo vợ vào khoảng thời gian ban đêm. Người ta kiêng kéo ban ngày bởi cho rằng ban ngày đang là thời gian đi làm, nếu kéo vợ vào ban ngày thì chứng tỏ đó là cô gái lười biếng không chịu làm việc. Và như vậy cũng sẽ bị phạt vạ. Đến thời gian đã hẹn, đợi bố mẹ cô gái ngủ say, chàng trai sẽ di chuyển đến gần vách phòng ngủ của cô gái và gõ nhẹ vào vách báo hiệu rằng chàng trai đã đến để cô gái chuẩn bị. Ngay khi cô gái bước chân ra khỏi cửa, chàng trai phải nhanh chóng nắm lấy tay cô gái dắt ra xa nhà khoảng cách 20, 30m sau đó sẽ bật đèn pin làm ám hiệu, gọi các bạn (đi theo để giúp chú rể) đang nấp ở một chỗ gần đó ra giúp kéo cô gái chạy nhanh về phía trước. Quá trình này phải được thực hiện một cách nhanh chóng, cẩn thận, nhẹ nhàng để không làm kinh động đến bố mẹ cô gái đang ngủ trong nhà. Trường hợp nếu bị gia đình nhà gái phát hiện, chàng trai và bạn của mình vẫn tiếp tục kéo cô gái bỏ chạy. Trong khi đó, hai người lớn tuổi được bố mẹ chú rể nhờ cậy đi cùng sẽ đảm nhận trọng trách ở lại nói chuyện cùng bố mẹ cô gái. Để tránh xô sát, 2 người này phải ăn nói thật mềm mỏng, khéo léo, thuyết phục gia đình nhà gái để họ đồng ý không đuổi theo nữa. Đồng thời, đoàn nhà trai sẽ phải đưa cho bố mẹ và những người họ hàng nhà gái đuổi theo, mỗi người số tiền tầm 20 - 30 nghìn, cũng có thể nhiều hơn tùy điều kiện gọi là tiền lễ để làm dịu tình hình. Về phía nhà gái, sau khi nghe người nhà trai phân tích lý lẽ phải trái sẽ nhận tiền và không đuổi theo nữa mà ngầm đồng ý để đoàn nhà trai kéo con gái mình đi.

          Đoàn kéo dâu phải gấp rút kéo cô gái ra khỏi bản một cách nhanh nhất. Thông thường họ sẽ không chọn những con đường vẫn hay đi mà sẽ đi đường nương, đường tắt... chủ yếu để đánh lạc hướng nhà gái, khiến họ không biết đường nào để đuổi theo. Sau khi xác định đã không còn người đuổi theo thì họ thả tay để cô gái tự mình đi. Đoàn người sẽ đi bộ suốt đêm trở về. Khi cách nhà trai khoảng 1km, chú rể cử 1 người trong số các bạn đi cùng chạy về trước gọi cửa, thông báo với bố mẹ chàng trai đã sắp kéo dâu về đến nhà để mọi người thức dậy mở cửa, đón dâu mới. Lúc cô dâu bước chân qua ngưỡng cửa nhà chàng trai cũng là lúc thủ tục kéo vợ hoàn thành.

Lễ Thông báo và thách cưới: Nghi lễ này được thực hiện vào buổi sáng ngày đầu tiên sau khi “kéo dâu”. Thông thường, để đi làm thủ tục thông báo, người Mông sẽ phải nhờ đến hai ông mối (mềnh công) trong đó có một ông mối chính (chứ mềnh công) và một ông mối phụ (lử mềnh công). Nhà trai sau khi có dâu mới sẽ tiến hành mổ lợn, mổ gà làm cơm giúp thết đãi anh em trong dòng họ. Mục đích của bữa cơm là thông báo tới anh em họ hàng rằng, chính thức từ hôm nay gia đình có thêm con dâu mới để mọi người đều được biết. Đồng thời, ở bữa cơm này gia đình nhà trai một lần nữa có lời chính thức nhờ vả hai ông mối cố gắng giúp đỡ khi sang nhà gái làm thủ tục để mọi việc của đôi trẻ được suôn sẻ thuận lợi.

Lễ vật dùng trong lễ thông báo gồm: một ít thuốc lào, 5 lít rượu đựng trong một cái can nhỏ, 2 cái chén nứa úp lên miệng 2 ống nứa đựng đầy rượu và 1 cái chăn nhỏ đựng trong lù cở được ông mối phụ đeo trên lưng. Trong khi đó,  ông mối chính tay sẽ cầm theo một cái ô đen, trên đó buộc một cái khăn và tiền hỏi cưới do ông chủ nhà trao. Ngoài ra, gia đình nhà trai còn phải chuẩn bị 2 con gà luộc và một ít cơm để ông mối đưa đi ăn trên đường; đồng thời, nhằm mục đích làm lễ cúng mời thần linh trên trời dưới đất, thổ công thổ địa, thần núi, thần rừng... về nhận lễ của gia chủ, đi theo giúp hai ông mối nói chuyện được thuận lợi, chuyện khó hóa dễ, chuyện dễ thì càng đơn giản hơn nữa... Sau đó, hai ông mối bắt buộc phải ăn hết phần cơm gà này rồi tiếp tục lên đường sang nhà gái.

Đến cửa nhà gái, hai ông mối bắt buộc phải đi vào bằng cửa chính. Khi vào nhà, trước hết ông mối chính đi thẳng về phía bàn thờ ma và treo ô lên vách tường phía đầu nhà. Ông mối phụ từ từ hạ lù cở xuống bắt đầu lấy thuốc lào ra chuẩn bị mời bố mẹ cô gái để xin được làm thủ tục.

Để thực hiện thủ tục này, phía nhà gái cũng sẽ mời một người anh em được gia đình tin tưởng để làm ông mối đại diện cho gia đình. Theo phong tục của người Mông ở xã Tà Xùa, trong suốt quá trình làm lễ hỏi cưới chỉ có ông mối đại diện hai bên gia đình ngồi nói chuyện, bàn bạc với nhau còn về phía bố mẹ và các thành viên gia đình nhà gái chỉ ngồi bên cạnh bếp lửa theo dõi cuộc trao đổi chứ không trực tiếp tham gia. Tuy nhiên khi cần sự quyết định thì ông mối đại diện nhà gái sẽ phải chạy đi hỏi ý kiến bố mẹ cô gái sau đó về truyền lời cho hai ông mối đại diện nhà trai biết. Trước đây, người Mông thách cưới bằng bạc trắng. Khoảng 30 năm trở lại đây, người ta thay từ bạc trắng thành tiền giấy do nhà nước phát hành. Hiện nay, nếu nhà trai và nhà gái đều ở cùng địa bàn xã Tà Xùa thì số tiền thách cưới dao động từ 25 đến 30 triệu đồng, nếu lấy khác xã thì số tiền này có thể nhiều hơn hoặc ít hơn tùy sự thỏa thuận của hai bên gia đình hoặc theo quy định của địa phương. Trường hợp nếu nhà gái có ý định tổ chức đám cưới thì số tiền thách cưới có thể cao hơn một chút coi như đó là tiền hỗ trợ nhà gái chuẩn bị thực phẩm cho đám cưới.

Sau khi thực hiện xong thủ tục trao – nhận tiền thì việc thông báo và hỏi cưới cũng coi như kết thúc. Gia đình nhà gái sẽ mổ lợn, gà thết đãi, cảm ơn hai ông mối nhà trai, đồng thời trong bữa cơm này chủ nhà cũng chính thức thông báo với anh em họ hàng và xóm giềng rằng con gái của gia đình đã đi lấy chồng, nay có hai ông mối nhà trai đến làm thủ tục để mọi người được biết.

Sau bữa cơm này, hai ông mối nhà trai xin phép cáo từ để ra về. Trường hợp nhà gái thông báo sẽ tổ chức lễ cưới thì ô và lù cở sẽ được để lại nhà gái, khi nào cưới nhà gái sẽ có thủ tục trao nhận để nhà trai đưa về. Trường hợp nhà gái không tổ chức cưới thì thủ tục phía bên nhà gái coi như đã hoàn thành.

Lễ nhập ma (chài ùa đăng): được thực hiện vào ngày thứ 3 sau khi kéo vợ về. Lễ cúng thường do một người trong gia đình có thể là ông, bà hoặc bố của chú rể am hiểu về phong tục tập quán thực hiện. Nếu gia đình không có người biết làm thủ tục này thì sẽ nhờ một thầy Mo trong bản, không kể là nam hay nữ đến làm giúp. Lễ vật cần phải chuẩn bị gồm đôi gà, một con trống và một con mái. Thực hiện lễ cúng, thầy mo tiến hành thắp hương vào các vị trí quan trọng trong ngôi nhà gồm hai bên cửa chính, hai cột ma ở gian giữa nhà và hai bếp chính, phụ; sau đó đứng trước cửa ma mặt hướng ra bên ngoài, tay giữ đôi gà và bắt đầu lẩm nhẩm khấn trong miệng, nội dung trước để gọi hồn cô gái về sau đó thông báo để ma nhà trai nhập hồn cô gái về cùng ma tổ tiên. Ngoài ra trong lễ cúng nhập ma của người Mông, nếu gia đình nhà trai không thích tên cũ của cô dâu (do trùng tên với mẹ chồng hoặc khi ở nhà bố mẹ đẻ cô gái thường hay đau ốm hoặc có vấn đề về sức khỏe...) thì người hành lễ sẽ tiến hành đặt tên gọi mới cho cô dâu. Ngụ ý rằng cô con dâu mới đã được sinh ra một lần nữa ở nhà chồng, từ nay cầu mong sẽ luôn được khỏe mạnh, không bệnh tật, sống tốt hơn ở nhà chồng.

Thăm bố mẹ vợ lần đầu (mông say nạ tày): Ba ngày sau khi bắt dâu về, nhà trai sẽ chuẩn bị để đưa con dâu về thăm bố mẹ vợ lần đầu. Đây là dịp để hai bên gia đình chính thức gặp gỡ, bố mẹ vợ và con rể cũng biết mặt nhau. Đoàn nhà trai sang thăm nhà gái hôm đó ngoài đôi vợ chồng trẻ còn có bố của chú rể (nếu bố không đi được thì có thể nhờ anh trai, hoặc chú, bác của chú rể đi đại diện) và một cô em gái chưa chồng đi cùng. Bánh giày là thứ lễ vật duy nhất và không thể thiếu để đưa sang gia đình bố mẹ vợ.

          Khi đoàn nhà trai đến, gia đình nhà gái tùy vào hoàn cảnh kinh tế sẽ tổ chức lễ tiếp đón to hay nhỏ. Nếu gia đình có điều kiện sẽ mổ lợn mời anh em, hàng xóm đến chung vui, giới thiệu con rể để mọi người nhận thức, nếu gia đình khó khăn không có đủ tiềm lực để tổ chức thì chỉ mổ gà làm một bữa cơm nhỏ tiếp đón đoàn nhà trai. Sau bữa cơm, đoàn nhà trai sẽ ở lại nhà gái thêm một vài ngày để giúp bố mẹ vợ làm những công việc hàng ngày như lấy củi, lên nương, chăn thả gia súc... Sau đó, đoàn nhà trai lên đường trở về. Lần này cô dâu sẽ mang theo tất cả đồ dùng, quần áo, tư trang của mình về ở hẳn bên nhà chồng và chỉ thi thoảng sang thăm nom, giúp đỡ bố mẹ đẻ những lúc cần thiết.

 Đám cưới nhà gái (hầu chéo to sai): Trước đây, do đời sống còn nhiều khó khăn, gia đình người Mông lại thường đông con... nên hầu hết người Mông ở xã Tà Xùa không tổ chức đám cưới bên nhà gái, chỉ một số gia đình có điều kiện mới tổ chức lễ cưới cho con gái, thủ tục trong đám cưới hầu hết đều sẽ giống đám cưới nhà trai nhưng được rút gọn hơn.

Điểm đặc biệt trong đám cưới nhà gái là thủ tục trả ô và lù cở do ông mối hai nhà thực hiện. Thực chất đây là sự nhắn nhủ, gửi gắm của gia đình nhà gái khi con gái về làm dâu nhà người; đồng thời cũng là sự cam kết sẽ quan tâm, yêu thương và dạy dỗ con dâu của gia đình nhà trai, xin nhà gái hãy yên tâm.

Lễ cưới nhà trai (hầu chéo to tu): Đám cưới sẽ được thực hiện sau đó một vài tháng, một năm hoặc có thể lâu hơn tùy thuộc vào thời gian chuẩn bị lương thực thực phẩm của hai gia đình. Theo phong tục của người Mông ở xã Tà Xùa, sau khi nhà gái tổ chức đám cưới thì ngay ngày hôm sau sẽ phải tổ chức đám cưới bên nhà trai. Trường hợp nhà gái không tổ chức đám cưới thì nhà trai có thể tổ chức đám cưới ở mức độ to, nhỏ tùy vào điều kiện và sự chuẩn bị của gia đình.

          Để tổ chức đám cưới, nhà trai sẽ nhờ đến sự giúp đỡ của anh em trong dòng họ và hàng xóm xung quanh. Trước đây, đám cưới thường được tổ chức vào buổi tối. Ngày nay do điều kiện sống khấm khá no đủ hơn, đồng thời mối quan hệ bên ngoài cũng trở nên rộng rãi bởi vậy người Mông ở xã Tà Xùa vẫn duy trì thực hiện nghi lễ cưới chính thức vào buổi tối, song sáng hôm sau sẽ là mở tiệc chiêu đãi khách khứa. Để thực hiện lễ cưới chính, thông thường một mâm cỗ cưới sẽ có khoảng 12 người ngồi. Trước mặt mỗi người bầy 2 chén rượu được cắt từ thân cây nứa chặt từ rừng về, một chén cao một chén thấp bởi người ta quan niệm chén cao là chồng, chén thấp là vợ, phải có đôi có cặp thì cuộc sống mới hạnh phúc. Trên mâm bày 4 bát thức ăn là 4 bát thịt luộc. Trước khi bắt đầu, người đại diện trên tay cầm một cái sàng và một gói thuốc lào, khi muốn mời ai vào ngồi mâm thì người đại diện sẽ mời người đó 1 ít thuốc lào tượng trưng cho lời mời của chủ nhà và dắt người đó đi vòng quanh mâm cỗ đến ngồi đúng vị trí mà người đại diện sắp xếp. Chỉ những người được nhận thuốc lào mới được vào ngồi lượt cỗ đấy. Đám cưới của người Mông thường ăn theo từng lượt, lượt trước xong thì mới đến lượt sau. Người được nhận thuốc lào sẽ ăn trước, người chưa nhận được thuốc lào thì đợi lượt cỗ sau. Thường thì lượt mời đầu tiên sẽ là những người có vai trò quan trọng.

          Lễ cưới nhà trai được diễn ra với khá nhiều nghi lễ trong đó kết thúc buổi lễ sẽ thực hiện nghi thức mở ô và lạy tạ của chú rể đối với hai ông mối và anh em, bạn bè đã đến giúp đỡ, chung vui trong hôn lễ. Trong quan niệm của đồng bào nơi đây, chiếc ô tượng trưng cho việc giữ hồn của cô gái ở trong đó, do vậy chỉ khi nhà trai tổ chức đám cưới (tức mọi thủ tục cưới hỏi đã xong xuôi) thì khi đó mới được phép mở ô ra. Thủ tục mở ô trong đám cưới nhà trai nhằm khẳng định từ đây cô gái chính thức trở thành con dâu của gia đình, được mọi người trong dòng họ và khách khứa biết đến. Cho đến nay thủ tục này vẫn còn tồn tại trong nghi lễ đám cưới của người Mông ở xã Tà Xùa.

          Có thể thấy, đám cưới và các nghi lễ đám cưới là một trong những nét độc đáo thể hiện rõ đặc trưng văn hóa tộc người Mông. Đám cưới của người Mông ở xã Tà Xùa là chuỗi dài các sự kiện từ “kéo vợ” đến lễ thông báo, thách cưới,... sau cùng đám cưới nhà trai là sự kiện kết thúc, đồng thời đâychính là sự khẳng định vai trò “danh chính ngôn thuận” của cô dâu mới ở nhà chồng. Từ đây đôi vợ chồng trẻ sẽ bắt đầu thích nghi với cuộc sống mới, tích cóp vốn liếng để vài ba năm sau khi đã có đủ điều kiện có thể xin bố mẹ ra riêng, dựng nhà cửa, nuôi nấng con cái theo vòng tuần hoàn mà cha ông đã gây dựng từ nghìn năm nay.

Tài liệu tham khảo

  1. Báo Sơn La Online, “Xã Tà Xùa”, <http://www.baosonla.org.vn:8080/bai-viet/82/ta%20xua
  2. Hồ Ly Giang (2004) Dòng họ người Hmông Trắng (quan nghiên cứu ở bản Mô Cổng, xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La), Khóa luận tốt nghiệp đại học, Trường ÐH KHXH&NV - ÐHQG TP Hồ Chí Minh.
  3. Dương Hà Hiếu (2008) “Tục cưới xin của người Hmông Trắng ở Thuận Châu, Sơn La (Qua nghiên cứu tại bản Nậm Giắt, xã Phỏng Lái)”, Tạp chí Dân tộc học, số 3.
  4. Nguyễn Thị Huyền (2019), Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La, Luận văn Thạc sĩ Dân tộc học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

 

 


CÁC BÀI CÙNG CHUYÊN MỤC