Chiềng Ngần là một xã thuộc thành phố Sơn La, cách trung tâm thành phố 5km về phía Tây Bắc. Phía Đông và Đông Nam giáp 2 xã: Mường Bú (huyện Mường La), Mường Bằng (huyện Mai Sơn); phía Tây giáp các phường: Quyết Tâm, Quyết Thắng và Chiềng Sinh (thành phố Sơn La); phía Nam giáp xã Chiềng Mung (huyện Mai Sơn); phía Bắc giáp xã Chiềng Xôm, phường Quyết Thắng, phường Chiềng An (thành phố Sơn La). Tổng diện tích tự nhiên của chiềng ngần là 4.584ha, trên địa bàn xã có những nhóm đất chính: feralit đỏ nâu trên đá vôi, độ phì nhiêu khá, chiếm 29,01%; đất feralit mùn vàng đỏ trên đá sét, hàm lượng mùn trung bình,…

Xã có 7 dân tộc cùng sinh sống bao gồm: Thái, Kinh, Mông, Mường, Tày, Hoa, Lào, người Thái chiếm 95,3 % dân số toàn xã, gồm 2 nhóm Thái Đen và Thái Trắng, người Thái định cư tại xã từ lâu đời có các dòng họ lớn như họ Cà (455 hộ), họ Đèo (245 hộ), họ Lù (200 hộ).  Người dân cư trú theo bản, mỗi bản trung bình 20 – 30 nóc nhà, các bản có rừng, đường mòn, đường ranh giới riêng,... Người dân trong xã sớm biết làm nương rẫy, trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, sắn,… và các loại lạc, đỗ. Trong quá trình lao động sản xuất, đồng bào đã tự chế tác các loại cung nỏ, súng kíp, dao, cuốc,… để phục vụ nhu cầu cũng như lao động sản xuất. Ngoài kinh tế nông nghiệp, Chiềng Ngần còn khuyến khích phát huy, phát triển vốn văn hóa truyền thống của cộng đồng, trong đó có có các tri thức dân gian liên quan đến con dao trong lao động. Các tín ngưỡng có liên quan đến con dao đã tồn tại lâu đời trong văn hóa Thái, làm cho bức tranh văn hóa dân gian của cộng đồng có dân số đông nhất ở xã Chiềng Ngần thêm đa dạng, phong phú.

1. Giá trị của dao đối với người Thái ở Chiềng Ngần, thành phố Sơn La

Dao trong lao động, sản xuất: từ lâu, người Thái đã coi dao là công cụ quan trọng bậc nhất trong việc tạo ra các giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Có dao người dân lấy gỗ, tre dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày, dùng để chế biến thức ăn, làm nương rẫy… Dao có nhiều loại với kích thước khác nhau và công dụng, mục đích sử dụng cũng khác nhau. Có thể chia dao của người Thái thành một số loại cơ bản sau: dao dựa (mịt nhớ), dao nhọn (mịt lem),… và các loại kiếm nhỏ, to dùng trong một số nghi lễ tín ngưỡng. “Dao nổi lên như một loại công cụ vạn năng. Có một con dao tử tế, người ta có thể canh tác trên một đám nương đầy đủ theo đúng nghĩa của nó. Dao thay rìu chặt cây; cạo vỏ cây làm bùi nhùi để làm mồi cho vật cọ sát bật ra lửa, dao tham gia việc dọn nương, chặt cây làm gậy chọc lỗ gieo hạt, thay liềm gặt hái” (Cầm Trọng 2005: 75). Trong lao động sản xuất, người Thái sử dụng dao dựa (loại to) làm những việc quan trọng trong canh tác như phát nương, phát đường đi ra ruộng, chặt các cây gỗ lớn dùng làm cột nhà, xà nhà,… Do tính chất nặng nhọc, vất vả và nguy hiểm của công việc, chỉ những người đàn ông trưởng thành mới được sử dụng loại dao to. Các loại dao có kích thước nhỏ dùng để khai thác các loại cây nhỏ như tre, nứa, dây rừng, dao cỡ nhỏ là công cụ gắn liền với phụ nữ và trẻ em ở lứa tuổi thiếu niên, dùng dao thu hái các loại rau, cây rừng. Dao của người Thái rất sắc, nhọn được sử dụng thường xuyên; mỗi khi sử dụng xong người đàn ông thường tiến hành mài dao ngay bằng các loại đá lấy ở rừng hoặc bờ suối chứ không để lâu, bởi để lâu dao nhanh cùn, lần sử dụng tiếp sẽ không sắc. Trong quá trình sử dụng dao, người sử dụng rất ít khi bị tác động của lưỡi hoặc mũi dao làm bị thương, điều đó cho thấy dao có vị trí cực kỳ quan trọng đối với con người.

Dao trong chế biến ẩm thực: trong văn hóa ẩm thực, dao dùng để mổ, làm thịt, chia nhỏ các tảng/miếng thịt các loại gia súc, gia cầm. Dao dùng để thái, băm, lọc, chặt loại xương, làm nhỏ các loại gia vị để phục vụ việc ăn uống hằng ngày trong gia đình hoặc phục vụ nhu cầu của cộng đồng. Qua thực tế, tác giả chứng kiến cách chế biến các món ăn của người Thái, thì dao có vị trí quan trọng trong chế biến món ăn truyền thống như: nạp trâu, bò, pha chế thịt đặc biệt là thái, băm, chặt,… Ngoài đôi tay khéo léo, còn có sự giúp sức tích cực là con dao để tạo các món ăn mang tính truyền thống được như ý và đảm bảo hương vị đặc trưng của cộng đồng. Sử dụng dao là cả một nghệ thuật giúp người xem “tai nghe, mắt thấy” một cách trọn vẹn nhất, tinh túy nhất giữa các cách chế biến ẩm thực, đồng thời thể hiện tài năng của người đàn ông, bởi người đàn ông là người luôn chế biến những món chính trong mâm cỗ của người Thái. Vì vậy, dao là vật quan trọng trong mọi công việc của người Thái, mỗi công việc dù to hay nhỏ thì công năng sử dụng luôn được phát huy tối đa để phục vụ mục đích của con người. Con dao nói riêng và dụng cụ dùng trong lao dộng, sản xuất nói chung phải được coi như một di sản văn hóa mang tính biểu tượng, đại diện của cộng đồng người trong tiến trình lịch sử đấu tranh chống lại kẻ thù, tạo ra của cải vật chất, góp phần làm phong phú, đa dạng dóng góp vào kho tàng văn hóa của cộng đồng.

  1. Dao trong văn hóa dân gian người Thái ở xã Chiềng Ngần, thành phố Sơn La

Dao trong tang ma: Người Thái có nhiều hình thức tín ngưỡng có liên quan đến con dao - sản phẩm của nghề rèn truyền thống, “Nghề rèn gắn bó mật thiết với đời sống hằng ngày của người dân nơi đây bởi nó tạo ra các công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt như: dao, cuốc, thuổng, hái, rìu... Ngoài ra, sản phẩm của nghề rèn còn mang ý nghĩa tâm linh khi được dùng trong việc cúng tế, đuổi tà ma theo phong tục của đồng bào nơi đây” (Tuệ Minh: 1). Theo phong tục của từng bản, từng địa phương, khi nhà nào có đám tang, trưởng bản sẽ tiến hành thông báo với bà con trong bản, để các gia đình biết được thông tin, sau đó mỗi hộ gia đình cử 2 người đến giúp tang lễ. Trong đám tang ai cũng đeo bên hông một con dao, có thể dao nhọn (mịt lem) hoặc dao dựa (mịt nhớ), cũng có thể là chiếc kiếm nhỏ. Đàn ông mang dao để giúp gia chủ việc chặt tre, làm các vật bằng tre, làm nhà mồ, đan lát phục vụ trong tang lễ hoặc các nhóm được phân công làm cỗ để cúng hoặc làm cỗ phục vụ mọi người đến giúp trong tang lễ. Ngoài ra, theo quan niệm mang dao bên mình còn chống được ma tà, người sức khỏe yếu đeo dao sẽ không sợ các hồn ma làm phiền, quấy nhiễu, người đến giúp còn cùng gia chủ tiến hành xác định vị trí đào huyệt mộ rồi dùng dao phát đường đi, phát quang chỗ huyệt mộ, con dao luôn bên hông, mỗi khi làm việc thì mới rút ra khỏi bao.

Đặc biệt trong tang lễ, khi tiến hành đưa người chết ra rừng ma, đi bên cạnh dẫn đường là con rể, có thể là rể cả hoặc rể thứ do người đã khuất lựa chọn làm người dẫn đường, người dẫn đường cũng đeo một con dao bên hông để sử dụng trong công việc cần thiết của mình, ngoài ra còn đeo thêm một con dao nữa của người đã khuất, phải là con dao được người đã khuất sử dụng thường xuyên. Sau khi tiến hành chôn cất xong xuôi thì người con rể được phép mang con dao đeo bên hông của người đã khuất về sử dụng bình thường, coi đó là vật được thừa hưởng từ bố mẹ vợ. Đây là tín ngưỡng trong tang ma của người Thái, được duy trì và tồn tại cho đến ngày nay, một nét đẹp văn hóa tâm linh mang đậm bản sắc tộc người.

Dao (kiếm) của thầy cúng (ông mo, thầy mo): Cúng tế có từ lâu đời, bởi người Thái tin vào thần linh với tín ngưỡng đa thần của đồng bào lấy nông nghiệp làm sinh kế. Thầy mo được xem như người có thể đến thế giới tâm linh chiến đấu với ma quỷ giải cứu hồn vía người đi lạc hoặc bị bắt đi. Để chiến đấu với ma quỷ, thầy mo phải cần đến một cây kiếm, kiếm có thể do thầy truyền lại cũng có thể tự rèn hoặc đặt các hộ rèn có uy tín ở địa phương. Trước khi tiến hành cúng, thầy cúng cầm kiếm khấn để xua đuổi tà ma, bảo vệ mọi người trong lễ cúng, kiếm là vật dùng quan trọng không thể thiếu của người thầy mo vì thế nó được bảo quản rất cẩn thận, kiếm không đem ra sử dụng mà chỉ dùng với mục đích trừ tà ma khi làm lễ. Khi ra khỏi nhà để làm cúng cho một chủ cúng nào đó, thầy cúng thường đặt kiếm lên ban thờ thắp hương khấn xin với thần linh (báo cáo) mong thần linh giúp đỡ để thầy cúng hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi tiến hành lễ cúng về phải đặt kiếm và các đồ lễ lên ban thờ và thắp hương để báo cáo (báo công) đã hoàn thành công việc. Thông thường khi cúng lớn (cúng dê, cúng lợn, cúng trâu), thầy cúng thường cúng con vật sống, thầy dùng kiếm chém tượng trưng vào con vật rồi mới giao con vật cho người nhà chủ cúng mổ để tiến hành các bước tiếp theo trong lễ cúng. Những ông mo, thầy mo giỏi thường có nhiều con nuôi và học trò của mình khắp các bản, họ là những người được mo quý mến hoặc mang ơn, được mo chữa bệnh, giúp giả trừ tà ma. Vì mến mộ, nhiều người muốn theo nghề mo nên xin các mo cho đi theo để học nghề, mỗi thầy mo chỉ chọn lấy một hai người trong số đông đảo những con nuôi, học trò của mình để truyền lại những bí quyết hành lễ. Nếu thầy mo già yếu và chết đi, gia đình thường giữ lại cây kiếm đã từng hành lễ như một báu vật thiêng liêng.

Dùng dao làm đơn vị đo lường truyền thống: Trước đây điều kiện giao thông đi lại còn nghèo nàn, đường sá rậm rạp, các thiết bị đo lường rất hiếm, người Thái thường dùng khái niệm “con dao quăng” để chỉ và xác định ước lượng khoảng cách xa gần. Có câu quang mịt là ném dao, quang mịt họt có nghĩa là ước lượng khoảng cách gần từ nơi đang đứng đến vị trí nào đó bằng cách ném (quăng) con dao về hướng đó. Tuy nhiên các nghiên cứu cho rằng khái niệm “dao quăng” cũng không hẳn thế, họ cho rằng người Thái sống dựa vào môi trường tự nhiên, dựa vào rừng để sinh sống, rừng cung cấp nguyên vật liệu, cung cấp thức ăn,… hình ảnh người đàn ông đi rừng đeo bao dao ở thắt lưng là hình ảnh không hiếm thấy ở người Thái. Vì con dao nặng đến trên dưới 1kg nên khi đeo nó bên hông lâu sẽ thấy mỏi, họ sẽ quăng con dao đeo từ bên hông này sang bên hông kia, hành động đó diễn ra liên tục trong lúc di chuyển. Khoảng thời gian giữa hai lần chuyển như thế được tính là một con dao quăng, khoảng cách được đo bằng một con “dao quăng” tùy vào sức khỏe của từng người, tùy thuộc vào thời gian di chuyển. Lúc mới đi thì một quăng dao sẽ xa hơn so với thời gian di chuyển nhiều hơn khi đã đi mệt; người lớn, người khỏe, người đi rừng thường xuyên thì một “dao quăng” cũng xa hơn so với người ít đi hoặc phụ nữ, trẻ em. Vì vậy, “dao quăng” là phương thức tính dân gian mang tính ước lượng, không chính xác, là đơn vị đo với từng cá nhân, chứ không mang tính bao quát cho tất cả mọi người.

Dao dùng trừ ma tà: Dao còn dùng khi nhà có trẻ sơ sinh để trừ tà ma, khi nhà có trẻ mới sinh, con dao được chủ nhà cài dưới tấm niếp (phên đan) để các ma không về quấy rầy trẻ nhỏ và người mẹ. Ngoài ra, theo ông Cà Văn Chăm (50 tuổi, thầy giáo) ở Chiềng Ngần cho biết: khi lên nhà mới, gia chủ tiến hành lễ “xên hươn”; gia chủ đeo dao ở hông ngồi cùng thầy cúng ở chân cầu thang, sau khi cúng xong, dao và một số đồ vật được mang lên nhà để ở nơi thờ cúng của gia đình, các đồ vật này không được bỏ xuống mà chỉ khi có việc lớn như tang ma, lễ tết mới đem xuống làm sạch rồi lại treo lên, với quan niệm các đồ vật trong đó có dao sẽ giúp chủ nhà xua đuổi được những điều xấu, mang lại những điều tốt lành cho các thành viên trong gia đình.

  1. Bảo tồn và phát huy giá trị của dao trong văn hóa truyền thống các tộc người ở Sơn La

Con dao đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, trong các tín ngưỡng dân gian của người Thái. Dao không chỉ đóng góp vào việc lao động sản xuất, mà còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc giữa con người với công cụ tạo ra của cải, con người dựa vào tín ngưỡng để tin rằng có đấng thần linh phù hộ, che trở, tránh được những điều xấu luôn mang đến những điều tốt đẹp. Qua các tín ngưỡng văn hóa dân gian liên quan đến con dao cho thấy văn hóa Thái chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc, các tín ngưỡng, bài khấn, tri thức có dịp được ôn lại để trao truyền cho thế hệ con cháu mai sau, nối tiếp vốn văn hóa tốt đẹp của cộng đồng.

Gần đây, ngày 18/11/2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 về việc phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, trong đó, mục tiêu tổng quát “giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu”. Ngày nay, đời sống của cộng đồng ngày càng phát triển, ấm no, hạnh phúc đời sống văn hóa tinh thần được thể hiện qua các thực hành văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của người dân. Qua đó thấy được cơ hội để văn hóa của cộng đồng người phát huy cùng với sự phát triển chung của toàn tỉnh Sơn La.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, các thiết bị thông tin ngày càng hiện đại đã và đang ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa bản địa; cùng với những thay đổi về nhận thức, về kinh tế đã kéo theo sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ giữa các tộc người với nhau. Đặc biệt, xu hướng đổi mới về đời sống sinh hoạt, nhiều giá trị văn hoá truyền thống bị biến đổi, một số bản trong thành phố Sơn La không còn giữ được bản sắc, những nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng so với người Kinh, bởi văn hóa vật chất đã che lấp, làm nhòa văn hoá Thái. Nhiều tập quán sinh hoạt đã thay đổi, không gian văn hóa truyền thống dần thu hẹp, thậm chí đã không còn được duy trì, thế hệ trẻ không còn mặn mà nhiều với lối sinh hoạt văn hóa truyền thống,…Vấn đề đặt ra là cần bảo tồn, chọn lọc và phát huy kịp thời giá trị các di sản văn hoá nói chung và tín ngưỡng dân gian về sử dụng công cụ lao động, trong đó có con dao là vô cùng quan trọng. Các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng cần có kế hoạch khuyến khích sử dụng vốn văn hóa truyền thống, như trong tang lễ hoặc các tín ngưỡng liên quan đến dao cần được sử dụng và thực hành đầy đủ, đó là những nét văn hóa truyền thống đã đang và cần được quan tâm, bảo tồn.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cầm Trọng (2005), “Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
  2. Chu Quang Trứ (2013), “Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật”, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội
  3. Tuệ Minh (2020), Những nghề thủ công truyền thống ở Sơn La" https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Du-lich/963855/nhung-nghe-thu-cong-truyen-thong-o-son-la (truy cập ngày 9/6/2021)

Tục lệ cưới xin của người Khơ Mú trải qua nhiều bước với nhiều nghi thức như: tìm hiểu, dạm ngõ (Prkhát cămbrạ), ăn hỏi (giomanh căm brạ), xin ở rể (Manh veech gút cămbrạ), tiễn rể sang nhà vợ (Srông veech gút cămbrạ), lễ hợp hôn (Pưn đệ), lễ cưới (căm brạ) và lễ lại mặt (hấp êm). Trai gái Khơ Mú đến tuổi cập kê được quyền làm quen và lựa chọn người bạn đời. Việc tìm hiểu thường qua các dịp lễ tết, cưới hỏi, những tuần trăng sáng hay qua lao động sản xuất. Để đi đến hôn nhân, người Khơ Mú có tục “do lạ con lưm” gần giống như tục chọc sàn của người Thái.

Đến tuổi 15 trở đi, con trai thường đến nhà con gái để tâm sự, tìm hiểu. Nếu chàng trai ưng ý một cô gái nào đó thì tối đến đem theo đàn nhị tới gầm sàn nhà của cô gái – nơi cô vẫn ngủ để đánh đàn gọi mời cô gái ra ngoài tâm sự. Nghe tiếng đàn nhị, cô gái biết có người đến rủ mình ra ngoài hiên tâm sự, cô mở cửa và cầm ghế ra ngoài hiên trò chuyện với chàng trai đến tận đêm khuya.

Trai gái dù đã yêu nhau từ trước hay do cha mẹ sắp đặt trước đều phải trải qua các bước nghi lễ sau:

Lễ ăn hỏi là bước đầu tiên của chu trình hôn lễ mà tất cả mọi người đều phải trải qua. Trước khi ăn hỏi, có một lễ gọi là thăm (hỏi bố mẹ cô gái) để xem ý kiến của họ nhà gái về tình cảm của các bạn trẻ. Sau lễ này, sẽ tiến hành trao đổi ý kiến giữa hai gia đình về việc thống nhất cho đôi trai gái đi đến hôn nhân. Bước thứ ba là thông báo cho họ hàng hai bên về quyết định tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ.

Thành phần trong lễ đi hỏi gồm có: ông mối (lam) và bố (hoặc mẹ) chàng trai, cùng với một số người anh em họ hàng chàng trai. Ở Bản Thàn, dẫn đầu đoàn đi hỏi là ông mối, cùng đi có 2 thanh niên nam và 2 thanh nữ trong họ để mang các đồ ăn hỏi sang nhà gái.

Lễ vật trong lễ ăn hỏi gồm có: Trầu cau, 4 lít rượu, 2kg gạo, 1 đôi gà. Ông mối (lam) đặt vấn đề và mục đích chuyến đi với cha mẹ cô gái, truyền đạt ý nguyện của nhà trai muốn cưới con gái họ về làm dâu. Sau khi nhà trai ngỏ lời, cha mẹ cô gái hỏi ý kiến con gái xem cô có ưng thuận thì cha mẹ cô gái nhận lời gả con cho chàng trai. Nhà gái làm một mâm cơm bằng những lễ vật nhà trai đưa sang để làm lễ đính ước giữa hai gia đình (phươm ma rọ manh - bữa cơm ăn hỏi). Lễ vật trong lẽ ăn hỏi sẽ được dùng hết trong bữa cơm đính ước giữa 2 gia đình. Trong bữa cơm thân mật, hai họ cũng bàn đến đến các lễ vật thách cưới và dẫn cưới trong tương lai.

Sau lễ ăn hỏi 1 tháng, nhà trai tìm ngày tốt tiến hành làm lễ cưới (pưn đệ klệ căm brạ). Trong lễ cưới, nhà gái, yêu cầu nhà trai phải nộp các lễ vật như đã thỏa thuận trong khi ăn hỏi, tùy thuộc vào điều kiện của từng gia đình, việc thách cưới chỉ còn mnag tính hình thức. Trong lễ cưới của người Khơ Mú ở Bản Thàn, nhà trai phải có 8 đồng bạc trắng để làm đồ thách cưới sang nhà gái cùng với các lễ cật khác như: Lợn 1 con từ 50kg trở lên (xường); gạo 30kg (ở rừng cộ); rượu 60 lít (buych); gà 4 con (hơia); nếu dùng tiền giấy thì phải nộp 250.000đ (cơmur chia); chăn, đệm 2 bộ (đrôc hđăm); vòng cổ 1 cái (xưng klôi); vòng tay 1 đôi (sư ngạch); hoa tai 1 đôi (kân sal); trâm cài đầu 1 cái (xưng gôm); khăn quấn tóc 1 đôi (glự lộp); thắt lưng 1 chiếc (sư eo); váy 1 cái (khôn); áo 1 chiếc (tẹp). Những lễ vật nộp cho nhà gái gọi là “khlương do pân đệ klệ cân brạ”.Đến ngày cưới đã chọn, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái. Nhà gái cử đại diện nhận lễ và kiểm lại từng khoản cụ thể (reng bưng rịt khoong). Đồ vật nhỏ thì họ đếm, lợn và gà thì đem cân lại để nắm rõ từng khoản mà nhà trai đem tới. Họ phải làm như vậy để phòng khi ly dị thì căn cứ vào đó bắt bên chủ động ly hôn bồi thường. Tất nhiên, nếu nhà gái chủ động bỏ thì nhà gái phải bồi thường, còn nhà trai bỏ thì không được đòi bồi thường. Khi bàn giao lễ vật cho nhà gái có sự chứng kiến của trưởng bản và hai họ phải hứa cam kết với nhau. Sau đó, nhà trai có trách nhiệm giết thịt các con vật vừa giao cho nhà gái. Lễ cúng tổ tiên được tiến hành tại gian thờ tổ tiên (hoong hrôi gang). Đó là gian đầu hồi ở phía cầu thang khách. Bình thường khi không cúng, bàn thờ (hrôi gang) là một tấm phên đan rộng 50cm x 50cm được gác trên gác gian thờ. Khi cúng, thì người ta lấy hrôi gang xuống đặt trên sàn ngay ở chính giữa gian thờ. Họ bầy các thứ đồ cúng lên trên tấm phên rồi tất cả thành viên gia đình nhà gái cùng với con rể vào ngồi xung quanh bàn thờ. Chủ gia đình là người chủ trì lễ cúng. Nếu cha chết thì người con trai cả thay cha làm chủ gia đình. Chủ nhà khấn gọi linh hồn tổ tiên về dự lễ cưới, thông báo cho ma tổ tiên biết từ nay gia đình có thêm thành viên mới là rể của gia đình, xin tổ tiên hãy phù hộ cho con rể khỏe mạnh. Khấn xong, chủ nhà dùng cơm nếp vẽ lên tóc chàng rể và lần lượt đến tóc các thành viên khác. Sau đó, dùng máu gà bôi lên đầu gối chàng rể và mọi người xung quanh bàn thờ. Kết thúc lễ cúng, những người ngồi quanh mâm thờ ăn một chút làm phép rồi bê mâm ra ngoài nhà cho nhà trai thái thịt bầy ra các mâm để mời dân bản và họ hàng hai bên cùng ăn uống chung. Tiệc cưới kéo dài cả ngày.

Trong đám cưới, nhà trai sẽ phải chịu toàn bộ chi phí lễ cưới tổ chức tại hai bên gia đình.

Người Khơ Mú cũng có tục ở rể như người Thái. Sau khi cưới xong, chàng rể phảiở lại nhà vợ sinh sống và làm bổn phận người rể (rặt khươi). Nhà gái chuẩn bị một số tặng phẩm tặng lại cho nhà trai, gọi là “khrương vệc hợp”. Mỗi người trong gia đình nhà trai được tặng một cái khăn piêu (hrơ vệc) một cái khăn trắng thêu hai đầu (khăn), một bộ quần áo nhuộm chàm (tẹp tưng kha vang) cho bố chồng. Số tặng phẩm này nhà gái tặng cho nhà trai sau khi cưới 1-2 tháng.

Trước đây, hạn ở rể thường từ 1đến 3 năm. Nhiều người vì thời gian ở rể quá lâu nên khi trở về nhà cha mẹ đẻ đã có con 11-12 tuổi.

Khi hết hạn ở rể, bố mẹ vợ phải cho con rể mọi thứ đủ xây dựng một gia đình nhỏ. Chủ yếu là các thứ như: Giống lương thực, lợn giống, chăn đệm, trâu, bò nếu bố mẹ vợ có cũng cho. Nếu nhà vợ quá nghèo, ít nhất rể cũng được cái ninh, đồ phát nương và một đôi vòng.

Lễ Pưn đệ (lễ hợp hôn) thường được tổ chức sau lễ tiễn ở rể từ một đến hai tháng. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái gồm: 1 con lợn từ 20 kg đến 30 kg; 1 con gà trống (để xem chân); rượu từ 10 đến 20 lít; gạo từ 10 đến 20 kg và đầy đủ gia vị thực phẩm cần thiết. Ngoài ra, còn kèm theo ít tiền mặt. Số tiền mặt và lễ vật kể trên sẽ được trừ trong lễ cưới chính thức. Đặc biệt, trong lễ pưn đệ, nhà trai còn mang trầu cau (theo yêu cầu của nhà gái), một bộ chăn, gối, đệm thứ gì cũng có đôi và những vật kỷ niệm cho con dâu (nếu nhà trai có điều kiện) ví dụ: 1 chiếc váy; 1 chiếc áo; 1 chiếc thắt lưng; 1 khăn piêu, vòng cổ, vòng tay...

          Trong lễ này, ngoài họ hàng hai bên còn Tạo bản (Khun cung) đến dự và là người làm lễ kết hôn cho đôi trẻ. Sau lễ này, đôi vợ chồng trẻ mới được phép ngủ với nhau và được quyền sinh con đẻ cái.

Lễ cưới chính thức (Cươi cơmun) được tổ chức sau khi chàng trai đã đã hết hạn ở rể (người Khơ-mú thường tổ chức lễ cưới chính thức vào tháng Mười cho đến ngày 25 tháng Chạp). Trước khi tổ chức lễ cưới chính thức, nhà trai phải cử người mang lễ vật gồm: 1 con gà; 2 chai rượu, gạo sang nhà gái để xin dâu. Sau đó chọn được ngày lành, tháng tốt, nhà trai mang toàn bộ số lượng lễ vật (như hai bên thống nhất) gồm: 1 con lợn 60kg, rượu 100 lít, gà 10 con, gạo 50kg, muối 1kg, vỏ sò đựng trong hộp (úp) gọi là tarader; 1 chiếc gươm, 1 cây giáo… sang nộp cho nhà gái, tổ chức lễ cưới chính thức.Những lễ vật này gọi là “đương cư mun vệc đư gang” (lễ vật đón dâu về nhà). Thành phần đi đón dâu gồm có đại diện cha mẹ chàng trai (chú, bác, cô, cậu), anh em của chàng trai (2 nam, 2 nữ); khoảng 6-8 người.

Lễ cưới chính thức(rước con dâu, cháu) về nhà, cha mẹ chàng trai phải đem một lễ nữa đến nhà gái, gồm các lễ vật như sau: Nhà gái khi nhận các lễ vật này cũng đem cân đo lại để ghi nhớ, sau đó nhà trai giết thịt lợn, gà, chế biến thức ăn để cúng xin phép ma của nhà gái cho phép chàng rể và con gái xuất khỏi họ. Cách làm trong lễ cúng này cũng như trong lễ cúng khi cưới, có khác là khi cưới thì xin phép nhập ma cho chú rể, còn lễ cúng đưa dâu là xin phép tách linh hồn con rể và con gái khỏi ma nhà để trở về sống ở ma nhà trai. Sau lễ cúng, hai họ và dân làng cùng dự bữa tiệc chia tay.

Trong lễ cưới chính thức của người Khơ Mú, có khá nhiều nghi thức diễn ra như:Cúng rượu cần (Bụi cờ đoong) trình báo ma nhà, đặt trầu (Nay plỵ  blu),mở hộp úp(gieng tarađer) do ông cậu bên nhà gái chủ trì để kiểm tra lễ vật do nhà trai mang sang; tạ ơn cha mẹ(Sù dầm bụ),của hồi môn (Kha mông căn đrường con đê),hát xin dâu (Tơm kro cmun), nộp cô dâu (Nộp cmun), tạ ơn ông mối;lễ lại mặt (Hấp êm) diễn ra sau lễ cưới 3 ngày.

Nhà trai khi đón dâu về cũng phải giết một con lợn 60kg, 60 lít rượu, 30kg gạo, 6-7 con gà. Khi các con vật trên đã được giết thịt, chế biến, nhà trai sắp lên bàn thờ cúng trình tổ tiên nhà trai xin phép nhập hộ cho cô dâu. Cách làm cũng như bên nhà gái. Các thành viên trong gia đình cùng cô dâu ngồi quanh mâm cúng tổ tiên ở gian cúng (hoong hrôi gang). Chủ nhà lấy xôi trộn với trứng vê lần lượt vào tóc cô dâu và tóc của mọi thành viên trong gia đình, sau đó lấy máu gà lần lượt bôi vào đầu gối cô dâu và các thành viên gia đình. Ý nghĩa của việc làm trên là xin phép ma nhà chồng nhận hồn cô dâu về sum họp với gia đình và phù hộ cho đôi vợ chồng mới mạnh khỏe, làm ăn phát đạt.

Khi chủ nhà cúng xong, mỗi người ăn một chút ở mâm cúng trên bàn thờ, sau đó họ đưa ra ngoài mời dân làng và hai họ cùng ăn uống.

Trong ngày đưa dâu về nhà chồng, nhà gái cũng cử một đoàn gồm bác, chú, cô, cậu, anh em cô dâu đưa tiễn đôi vợ chồng sang tận nhà trai và cũng tham dự mâm cơm đón dâu của nhà trai.

Trường hợp người góa tái giá thì có sự khác nhau đối với đám cưới thông thường. Đối với gái góa đi bước nữa thì đám cưới giản đơn hơn, chỉ cần làm lễ đám cưới nhỏ như “teng gang” rồi đón dâu về nhà chồng. Các nghi lễ ở nhà trai thì vẫn thực hiện như đám cưới bình thường. Nếu đàn ông góa mà đi lấy gái tân phải làm đầy đủ nghi lễ như đám cưới bình thường vì người Khơ Mú quan niệm là “xương âm, đa phau yia ân đạ tồn” (nghĩa là lợn chưa mổ, gà chưa luộc), nên nhà trai phải đáp ứng mọi yêu cầu của nhà gái. Tức là đám cưới phải được tiến hành theo đúng luật tục của người Khơ Mú.

Nếu vợ chồng sống với nhau không còn tình cảm, mâu thuận gay gắt khiến không thể tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân mà hau vợ chồng cùng thuận tình ly hôn thì cộng đồng, luật tục cho phép. Tài sản gia đình và con cái được chia đều cho hai người, chồng nuôi con trai còn vợ nuôi con gái. Trong trường hợp một người muốn ly hôn, người kia không chấp thuận mà dẫn đến chia tay thì người khởi xướng ly hôn chỉ được 1/3 tài sản cũng như con cái.

Trong quan hệ gia đình con dâu phải thức khuya dậy sớm hơn các thành viên khác, phải chuẩn bị giường chiếu cho cả nhà ngủ, sáng phải thức dậy sớm lo cơm nước cho cả nhà, chăm sóc đàn gia súc, gia cầm. Thường nàng dâu không ngồi ăn cùng mâm với bố chồng. cô dâu cũng không được tự tiện vào buồng của bố mẹ chồng, đặc biệt là ngồi lên giường của bố mẹ chồng, chỉ khi bố mẹ chồng chết, vợ chồng người con cả mới được chuyển sang giường của bố mẹ đẻ ở nhưng phải thưng lại vách buồng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ban dân tộc Tây Bắc (1954), Báo cáo về tình hình người Xá Cẩu, Tài liệu đánh máy phòng lưu trữ khu tự trị Tây Bắc.
  2. Trần Tất Chủng (2005), Văn hóa vật chất người Khơ Mú ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
  3. Khổng Diễn (1999), Dân tộc Khơ Mú ở Việt Nam, NXB Văn hóa văn hóa dân tộc, Hà Nội.
  4. Tạ Quang Động (2021), Nhạc cụ đao của người Khơ Mú, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  5. Trần Văn Hà (1999), Tìm hiểu về tri thức địa phương của người Khơ Mú ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện – Viện Dân tộc học, Hà Nội.
  6. Đặng Minh Ngọc (2000), Khảo sát về tình hình kinh tế của người Khơ Mú ở Bản Thàn, xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, Viện Dân tộc học.
  7. Nguyễn Duy Thiệu (1996), Cấu trúc tộc người ở Lào, Nxb KHXH.
  8. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Giáo dục.
  9. Đặng Nghiêm Vạn (1965), Số liệu về sự thiên di của các bộ lạc Thái vào Tây Bắc Việt Nam, NCLS số 78 -9/1965.
  10. Đặng Nghiêm Vạn (1972), Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội.
  11. Lịch sử đảng bộ huyện Yên Châu (2018), Nxb Lý luận Chính trị

Lễ cưới là một nghi lễ quan trọng trong chu kỳ đời người, thể hiện bản sắc văn hóa tộc người, vai trò của gia đình, dòng họ, cộng đồng trong nghi lễ. Lễ cưới có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn giống nòi, nghi lễ, gia đình truyền thống. Đồng thời hôn nhân và đám cưới của người Dao Tiền còn bảo tồn những giá trị văn hóa riêng của tộc người này.

Thứ nhất, đám cưới của người Dao Tiền bảo tồn các nghi lễ văn hóa truyền thống. Người Dao Tiền rất coi trọng việc xây dựng, củng cố gia đình truyền thống, vì vậy, việc dựng vợ, gả chồng được coi là khâu mở đầu của sự hình thành gia đình, được thực hiện rất thận trọng và trang nghiêm cũng như vẫn được giữ gìn đậm nét trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc này. Trong lễ cưới, các phong tục và lễ nghi từ việc đi xin tuổi cô dâu, đưa tuổi cô dâu, chú rể nhờ thầy cúng xem sách lục hợp, đến nghi lễ ăn hỏi, báo cáo tổ tiên xin được tổ chức đám cưới, “ngủ mơ”, xin dâu, đón dâu, cắt khẩu và nhập khẩu cho cô dâu đều được thực hiện đầy đủ, theo đúng trình tự, có đủ các loại lễ vật kèm theo, các bài cúng, bài răn dạy nghĩa vụ làm dâu, rể, làm cha, làm mẹ….Đặc biệt, trong Lễ cưới, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái không thể thiếu được là lễ tơ hồng. Lễ tơ hồng tuy đơn giản, được những người đàn ông cao tuổi, có uy tín trong dòng họ dùng giấy bản gói muối và gừng, buộc bằng chỉ tơ hồng, kèm thêm những đồng tiền bạc (theo sự thách cưới của nhà gái) nhưng mang ý nghĩa sâu sắc cầu mong cho đôi trẻ đã được se duyên trời, sống với nhau mặn nồng, đầu bạc răng long.

          Thứ hai, Lễ cưới của người Dao Tiền bảo tồn kho tàng văn hóa,giáo dục đạo đức con cái, vợ chồng. Hôn nhân và gia đình, dòng họ luôn gắn bó mật thiết, chiếm vị trí quan trọng trong kho tàng văn hóa dân tộc Dao. Để đảm bảo sự bền vững của gia đình, sự trường tồn và phát triển của dòng họ, nhân dân và những người giỏi sáng tác thơ ca, tục ngữ, sách học, châm ngôn không chỉ răn dạy thanh niên nam, nữ mà còn cảnh báo khá nghiêm khắc về nghĩa vụ của các bậc cha mẹ. Trong đám cưới của người Dao Tiền không có các tiết mục hát, múa. Tuy nhiên luân thường, đạo lý được răn dạy rất kỹ lưỡng thông qua các bài cúng, lời dặn dò của bố mẹ hai bên đối với cô dâu, chú rể để thực hiện tốt vai trò của cuộc sống vợ chồng, bổn phần của những người làm con:“Mẹ tu công quả con gái tốt, cha ân đức dày con trai làm quan”; “Dành tiền con cháu; tính toán không minh tại cha mẹ”;“Nhà có con trưởng, nước có đạo thần; đạo thần không công quốc lễ loạn; con trưởng không giỏi nhà túng nghèo”;“Nhà giàu nhờ con trưởng; chính pháp nhờ đạo thần”; Quan niệm hôn nhân chỉ 1 vợ, 1 chồng: “ngựa chỉ phối một yên, nỏ chỉ phối 1 tên”

Coi trọng chế độ phụ quyền, nhưng không xơ cứng, vẫn đánh giá đúng công lao của nhà gái, họ ngoại, bình đẳng trong quan hệ vợ chồng “Vợ theo chồng, chồng theo vợ”. Răn dạy con dâu, mẹ chồng: cô dâu đã là gái có chồng thì không được tơ tưởng đến người tình cũ; ngay phút đầu tiên bước ra khỏi nhà theo đoàn đưa dâu sang nhà chồng đã phải nhìn thẳng, không được quay đầu, nghiêng ngó…phải đối xử khéo với em cô, mẹ chồng và khuyên mẹ chồng phải gần gũi với con dâu trong buổi đầu bỡ ngỡ, không đối xử hà khắc với con dâu dễ dẫn đến hôn nhân của con cái đổ vỡ.

Thứ ba, đám cưới của người Dao Tiền bảo tồn các trang phục truyền thống.Trong lễ cưới, trang phục truyền thống là một thành tố quan trọng, mặc dù hiện nay ngày thường họ ít mặc nhưng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều có ít nhất một bộ để mặc vào những ngày lễ, đặc biệt là lễ cưới. Ngoài việc chuẩn bị cho cô dâu, chú rể bộ trang phục truyền thống thì những người phụ nữ trong họ đều mang trang phục đến để mặc cho cô dâu thể hiện sự quan tâm che chở, chăm sóc; những người trong đoàn đón dâu, đưa dâu, dẫn lễ đều phải mặc đầy đủ trang phục truyền thống. Trang phục truyền thống trong lễ cưới của người Dao Tiền vừa thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của cộng đồng người Dao.

Có thể nói, trang phục của người Dao Tiền là một trong những loại hình trang phục được bảo tồn tốt nhất so với các dân tộc khác ở Sơn La cả về chất liệu, kiểu dáng, kỹ thuật tạo hoa văn, các loại hoa văn, cách thức cắt may và phương thức sử dụng. Hiện nay, trang phục của người Dao Tiền vẫn hoàn toàn được dệt bằng vải bông, nhuộm chàm, ngoài trang trí bằng hoa văn in sáp ong thì không có hoa văn nào khác, người ta diềm gấu váy bằng một đường vải trắng và một đường vải đỏ, viền nhỏ, trên cạp cũng viền một đường vải trắng, có xếp nếp một chút để tạo độ xòe cho váy, mềm mại khi mặc. Áo được may theo lối xẻ ngực có thêu rất điểm hoa văn viền theo gấu áo, lưng áo, viền chỉ nẹp áo, hoa văn đậm đặc ở cổ tay áo, sau cổ đính các đồng tiền. Hoa văn thêu trên áo mang đặc trưng văn hóa của người Dao đó là dấu ấn Bàn Vương, dấu thập ngoặc, hình con chó, nốt chân chó, cây thông.... Áo không có cúc, thường lồng 2 cái vào nhau, khi mặc thường mặc áo kép, khép xéo vạt, dùng thắt lưng buộc quanh bụng để giữ áo. Thắt lưng là một sợi dây dài hơn 2m được dệt bằng một loại khung dệt nhỏ bằng các loại sợi màu đã se chắc. Khăn đội đầu được thêu hoa rậm rạp ở 2 đầu khăn bằng chỉ màu đỏ hoặc hồng rực rỡ, gắn các tua bông đỏ, hồng. Chân quấn xà cạp cũng được thêu chỉ màu đen trên nền vải trắng.

Trong đám cưới, người Dao Tiền kiêng mặc đồ màu trắng nên trang phục trong lễ cưới chủ yếu là trang phục màu đen. Ngày cưới, cô dâu chú rể sẽ mặc trang phục mới nhất, đẹp nhất do tự tay cô dâu làm cho mình, thêm bộ trang phục mẹ chồng, mẹ đẻ chuẩn bị cho, họ hàng đến cho mượn.

Thứ tư, lễ cưới của người Dao Tiền bảo tồn các nét văn hóa ẩm thực.Mặc dù hiện nay, trong thời kỳ kinh tế thị trường, nhiều hàng hóa được lưu thông, giao lưu văn hóa, kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhưng trong Lễ cưới người Dao Tiền, các loại lễ vật, cách chế biến các món ăn truyền thống vẫn được gìn giữ. Điều này thể hiện ở việc chuẩn bị các đồ lễ dẫn cưới của nhà trai sang nhà gái, các món ăn trong các bữa cỗ: thịt lợn chua, rượu hoẵng, bánh rán…

Thịt chua: là món ăn ngày thường và cũng là đồ lễ dẫn cưới, món ăn trong các mâm cỗ cưới. Các gia đình đều phải nuôi lợn để chuẩn bị sẵn thịt chua, nếu đám cưới bị trì hoãn thì đưa ra dùng và làm gối mẻ khác vào để lúc nào trong nhà cũng có sẵn vì thịt chua phải làm ít nhất 6 tháng mới có thể ăn được và có thể để được 2-3 năm.

          Bánh rán: dùng bột gạo nếp nặn thành hình tròn, không có nhân, rán lên (trước đây không có đường, hiện nay họ cho thêm chút đường cho ngọt). Tuy nhiên, theo quan niệm của người Dao Tiền, đám cưới không thể thiếu được các cặp bánh rán, bánh to tượng trưng là mẹ, bánh nhỏ tượng trưng là con, cầu mong sau này đông con nhiều cháu, hạnh phúc của đôi trẻ sẽ được vẹn tròn. Vì vậy, mỗi đám cưới, các bà, các mẹ, các chị em vẫn xúm nhau lại làm để bánh rán cúng tổ tiên, đưa sang nhà gái, biếu những người giúp đám cưới.

Rượu hoãng: là loại rượu không chưng cất, ủ men giống như rượu nếp của người Kinh, chắt lấy nước đặc màu trắng đục, có mùi thơm, say nồng. Rượu hoãng không thể thiếu được trong nghi lễ cúng của đám cưới cũng như đồ lễ dẫn sang nhà gái.

Thịt lợn sống: có thể nói không dân tộc nào lại làm đồ lễ dân cưới sang nhà gái nhiều thịt lợn như vậy. Trước đây, khi điều kiện kinh tế khó khăn thì mỗi gia đình có thể mổ 03 con lợn nhỏ (khoảng 40-50kg); ngày nay, điều kiện kinh tế tốt hơn nên mỗi gia đình đều mổ lợn to từ 100kg trở lên để dẫn lễ sang nhà gái. Lợn mổ ra, được xẻ thành các phần theo vai vế, họ hàng bên nhà gái. Nhà gái cũng tổ chức lễ đón nhận trang trọng theo đúng phong tục, thể hiện lòng biết ơn đối với nhà trai.

Thứ năm, Lễ cưới của người Dao Tiền thể hiện tính cộng đồng, sự chia sẻ của dòng họ, gia đình hai bên: do xem tuổi kỹ lưỡng và có những quy định cụ thể nên người Dao Tiền tuyệt đối không có hôn nhân cận huyết, người trong cùng một dòng họ muốn lấy nhau phải cách nhau từ 3-5 đời, tuổi kết hôn trẻ nhưng phụ nữ ít khi kết hôn dưới 18 tuổi, vì vậy, hiện tượng tảo hôn rất ít xảy ra, đây cũng là những tập quán đẹp góp phần bảo tồn giống nòi, gia đình, dòng họ của người Dao. Người Dao Tiền kết hôn một vợ một chồng, không có hiện tượng đa thê và họ chủ yếu kết hôn cùng tộc, thậm chí cùng ngành Dao, ít kết hôn khác tộc.

Lễ cưới của người Dao Tiền ởhuyện Vân Hồ nói riêng và tỉnh Sơn La nói chung là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc sắc; Đây là một mảng màu trong bức tranh đa sắc màu của nền văn hóa Việt Nam. Lễ cưới dân tộc Dao thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn nhiều giá trị di sản văn hóa như: tín ngưỡng dân gian, nghi lễ truyền thống, ẩm thực, trang phục….

Đám cưới người Dao Tiền ngày nay có một số thay đổi so với trước kia khi có sự pha trộn các yếu tố hiện đại như cô dâu, chú rể mặc trang phục hiện đại, chụp ảnh cưới, trong lễ cưới chủ yếu dùng tăng âm, nhạc hiện đại nhưng những nghi lễ truyền thống vẫn được duy trì. Với người Dao Tiền, đám cưới không chỉ là nghi lễ tác thành cho đôi trẻ mà còn thể hiện những quan niệm, tín ngưỡng dòng tộc, là dịp để anh em, họ hàng họp mặt, chung vui cùng gia chủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971) Người Dao ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội - Hà Nội
  2. Diệp Đình Hoa (), Người Dao ở Trung Quốc (qua những công trình nghiên cứu của học giả Trung Quốc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  3. Phan Thị Phượng (2015), Trang phục và nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Dao Đỏ ở Lào Cai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  4. Chảo Văn Lâm (2015), Nhà ở truyền thống của người Dao tuyển ở Lào Cai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La (2014). Báo cáo Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Mông và Dao.
  6. Tư liệu điền dã tại tiểu khu Sao Đỏ huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
  7. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2020), Địa chí Sơn La, quyển 1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
  8. Lịch sử hình thành huyện Vân Hồ, nguồn: https://vanho.sonla.gov.vn/1311/31999/63371/lich-su-huyen-van-ho, ngày truy cập 18/8/2021
  9. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Vân Hồ,số liệu thống kê dân số tháng 6/2020.

Nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Dao Tiền, nguồn: http://dsvh.gov.vn/nghi-le-truyen-thong-trong-dam-cuoi-cua-nguoi-dao-tien-3115, ngày truy cập 23/8/2021.

Đặt vấn đề
Sơn La là tỉnh miền núi, biên giới phía Tây Bắc, diện tích tự nhiên 14.109,83 km2 (đứng thứ ba trong cả nước); dân số trên 1,3 triệu người với 12 dân tộc cùng sinh sống (dân tộc Thái 53,5%; Kinh 16,43%; Mông 15,92%; Mường 6,96%; Xinh Mun 1,97%; Dao 1,67%; Khơ Mú 1,37%; 2,05% các dân tộc thiểu số khác). Sơn La vừa là giao điểm của nhiều nét văn hóa đặc sắc, vừa là một trong các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng chiến lược, quan trọng của vùng Tây Bắc Việt Nam. Với những giá trị văn hóa đặc sắc, văn hóa các dân tộc thiểu số là thành tố quan trọng, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của vùng đất nơi đây. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của đời sống kinh tế văn hóa xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, văn hóa của nhiều cộng đồng dân tộc ở Sơn La đã và đang có nhiều biến đổi theo những chiều hướng khác nhau. Ngoài những ảnh hưởng tích cực, đã xuất hiện những ảnh hưởng tiêu cực, những mâu thuẫn giữa hội nhập, phát triển kinh tế với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người.
1.Đặc điểm văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La
- Văn hoá các dân tộc trong tỉnh được hình thành từ lâu đời, vừa thống nhất vừa đa dạng.
Văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc. Trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, các giá trị văn hóa đó không ngừng được kết tinh và phát triển. Đó là đức tính nhân ái, đoàn kết, lối sống và ứng xử của các cư dân thuộc nền văn hóa nông nghiệp đặc biệt là tinh thần yêu nước, là ngôn ngữ chung, chữ viết chung... Đây chính là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp tạo nên tính thống nhất về văn hóa của cộng đồng các dân tộc sinh sống tại tỉnh.
Tính đa dạng trước hết biểu hiện ở sắc thái văn hóa vùng với những đặc điểm riêng được sáng tạo nên bởi các nhóm cư dân, các thành phần tộc người trên vùng lãnh thổ như ngôn ngữ, trang phục, tín ngưỡng, lễ hội....
Tính đa dạng còn biểu hiện ngay trong từng tộc người, nhất là những tộc người có nhiều nhóm địa phương như nhóm Thái (Thái Đen, Thái Trắng); nhóm Dao (Dao Đỏ, Dao Tiền); nhóm Mông (Mông Đen, Mông Hoa...)góp phần làm nên một bức tranh đa dạng về văn hóa của cá dân tộc tại tỉnh.
- Văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La được hình thành và phát triển từ một nền văn hóa dân gian.
Các kết quả nghiên cứu khoa học về lịch sử, khảo cổ học, dân tộc học, folklore, nhân chủng học, địa chất học, địa danh học...đã cung cấp nhiều bằng chứng cụ thể về thời kì tiền sử tại Sơn La – nơi con người đã có mặt từ rất sớm. Qua nhiều thế kỷ đã tồn tại một giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cư dân nông nghiệp trồng trọt, của một thiết chế xã hội công xã nông thôn... với một hệ thống các triết lý và quan niệm cùng nhiều hình thức sinh hoạt gắn với chu kỳ đời người, chu kỳ trồng trọt, chu kỳ thời tiết... Đó là những giá trị văn hóa dân gian.Các giá trị văn hóa dân gian là “nguyên liệu” chính cùng với các giá trị văn hóa bác học... đã tạo nên bản sắc văn hóa của các dân tộc tại Sơn La nói riêng và cả nước nói chung.
2. Thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La
Trong thời gian qua, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trong tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng.
- Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được bảo tồn, kế thừa và phát huy trong thực tiễn đời sống của đồng bào các dân tộc.
Tính đến nay, tỉnh Sơn La có 89 di tích văn hóa vật thể được phê duyệt đưa vào danh mục, trong đó có 63 di tích được xếp hạng (1 di tích quốc gia đặc biệt, 16 di tích quốc gia, 46 di tích cấp tỉnh). Đến năm 2020, tổng số tư liệu, hiện vật đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh là 23.366 tư liệu, hiện vật, trong đó có nhiều tư liệu hiện vật quý như: Sách Thái cổ, sách Dao cổ, trống đồng, trang phục các dân tộc, sản phẩm đan lát... Giai đoạn 2015 - 2022, tỉnh đã triển khai công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi được 16 di tích lịch sử cách mạng quốc gia trên địa bàn tỉnh. Tiêu biểu như: Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô I, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu; Di tích lịch sử Ngã ba Cò Nòi, huyện Mai Sơn; Di tích Đền thờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp (huyện Phù Yên)...
Sở Văn hóa thể thao và Du lịch đã tiến hành công tác kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể của 9 dân tộc bao gồm: Thái, Mông, Dao, Mường, Xinh Mun, Khơ Mú, La Ha, Lào, Kháng theo 07 loại hình gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội; Nghề thủ công truyền thống; Lễ hội truyền thống; Tri thức dân gian. Sở đã nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học được 13 di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu, trong đó có 12 di sản đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận và đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đó là: Chữ viết cổ dân tộc Thái; Lễ Hết Chá dân tộc Thái (nhóm Thái trắng Mộc Châu); Nghệ thuật Xòe Thái; Lễ cúng dòng họ của người Mông, Lễ Cầu an (Pang A) của người La Ha; Nghi lễ Cấp sắc của người Dao; Nghệ thuật Khèn của người Mông huyện Mộc Châu; Nghi lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền; Nghệ thuật tạo hoa văn trên trang phục của người Mông hoa huyện Mộc Châu; Nghi lễ Gội đầu của người Thái Trắng huyện Quỳnh Nhai; Nghi lễ Kin Pang Then của người Thái trắng; Nghi lễ cầu sức khỏe (Mạng ma) của người Xinh Mun dạ, xã Chiềng On, huyện Yên Châu .
Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, chế tác, thể hiện, truyền dạy và tư liệu hóa 14 loại hình văn hóa truyền thống của các dân tộc. Nhạc cụ của người Mông, Thái, Khơ Mú, Dao; các làn điệu dân ca của người Mông, Thái, Dao, Mường; nghề làm giấy thủ công và nghệ thuật vẽ tranh thờ trên giấy dó của người Dao; Nghi lễ cúng vía trâu của người Thái; Lễ cúng bản của người La Ha, Lễ mừng cơm mới của người Lào; nghề thêu và in hoa văn bằng sáp ong trên vải của người Mông; các nghi lễ trong năm của người Khơ Mú…
Hiện nay, tỉnh có 2 kho sách chữ Thái cổ tại Thư viện tỉnh và Bảo tàng tỉnh với số lượng 1.495 cuốn, được lưu giữ và bảo quản bằng công nghệ thông tin hiện đại. Trong giai đoạn 2015 - 2022, mỗi năm đã xuất bản 3 đầu sách về sưu tầm, dịch, nghiên cứu văn nghệ dân gian với kinh phí bình quân 270 triệu đồng/năm để bảo tồn, giới thiệu, phát huy tinh hoa văn hóa các dân tộc Sơn La.
Nhiều giá trị, di sản văn hóa các dân tộc được nghiên cứu, tôn vinh là di sản văn hóa Quốc gia và nhân loại. Ngày 15/12/2021, UNESCO đã ghi danh “Nghệ thuật xòe Thái” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 28 nghệ nhân là người dân tộc thiểu số được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Hàng năm, tỉnh còn tổ chức cho các nghệ nhân, đội văn nghệ tham gia trình diễn dân ca, dân vũ, ẩm thực, nghề thủ công truyền thống và các lễ hội, lễ nghi của tỉnh được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam và tham dự các liên hoan văn hóa, văn nghệ khu vực, toàn quốc.
Bên cạnh đó, các đội văn nghệ quần chúng cũng được tổ chức và hoạt động ngày càng có hiệu quả, là môi trường tốt để bảo tồn những điệu múa, dân ca, nhạc cụ truyền thống, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân và tổ chức phục vụ khách du lịch.
Nhiều đề tài khoa học, đề án, dự án, phương án bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc được quan tâm, triển khai thực hiện, tiêu biểu như: “Khảo sát sưu tầm lễ hội dân tộc Mông tỉnh Sơn La”; “Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Thái trong quá trình hội nhập quốc tế”; “Bảo tồn văn hóa cư dân vùng tái định cư thủy điện Sơn La”; “Bảo tồn di sản văn hóa vùng lòng hồ thủy điện Sơn La”; …. Qua đó, đánh giá thực trạng của di sản văn hóa các dân tộc và đưa ra những định hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hoá trên địa bàn toàn tỉnh.
Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc tỉnh Sơn La đang có nguy cơ mai một và biến đổi.
- Nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc đã, đang bị mai một nhanh chóng (ngôn ngữ, tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực, kiến trúc, lễ hội, hôn nhân, tang ma…). Ở Sơn La hiện nay, có thể nhận thấy những giá trị văn hóa đang biến đổi hàng ngày hàng giờ chính là chữ viết, trang phục và kiến trúc nhà ở của nhiều dân tộc.
Biến đổi về chữ viết: Đa số các dân tộc tỉnh Sơn La bảo tồn rất tốt tiếng nói của dân tộc mình như dân tộc: Thái, Mông, Dao, Mường, Lào. Tuy nhiên, do có sự giao lưu nhiều với dân tộc Thái và sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội đã làm cho những nhóm dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La như Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng ít sử dụng tiếng nói của dân tộc mình mà chuyển sang sử dụng tiếng Thái trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, ở một số vùng thị trấn, thành phố, con em các dân tộc có bố mẹ là công chức nhà nước, hôn nhân khác tộc rất ít biết tiếng nói của dân tộc mình. Đây là một biến đổi tất yếu nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay.
Biến đổi về trang phục: Trước đây, người dân tự trồng bông, lanh để dệt vải làm trang phục, làm chăn đắp; các loại vải này thường có các màu sắc chủ đạo là đen, đỏ, vàng, trắng. Ngày nay, người dân đa số không còn trồng bông, lanh để dệt vải mà sử dụng sợi bông công nghiệp được mua ngoài chợ để may trang phục (thường rẻ và tiện hơn so với dệt và may truyền thống); Màu sắc, họa tiết hoa văn trên vải và trên trang phục cũng rực rỡ hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn; cách thức may trang phục cũng được cải tiến, chuyển từ may và thêu tay sang may máy. Trước đây, trang phục truyền thống được người dân sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày cũng như các dịp lễ, tết. Hiện nay, y phục truyền thống chỉ chủ yếu phổ biến ở vùng sâu vùng xa, hoặc các cụ già là còn giữ được thói quen mặc trang phục cổ truyền hàng ngày.Bộ phận lớn thanh niên đều ưa dùng loại quần áo may sẵn bằng vải dệt công nghiệp như ở miền xuôi, họ chỉ mặc quần áo truyền thống trong các dịp hội hè, lễ tết; nhiều thanh thiếu niên còn ngại mặc trang phục truyền thống với tâm lý tự ti, khác biệt với các nhóm dân tộc khác. Nhiều nhóm dân tộc có nghề thủ công thêu khăn piêu truyền thống như người Thái, người Lào, người Khơ Mú… tuy nhiên, hiện nay chỉ còn người già, phụ nữ đã lập gia đình biết thêu thùa còn lại các em gái, thanh niên gần như không được thêu, dạy… là một trong những nguy cơ làm mai một và biến mất các nghề thủ công truyền thống.
Biến đổi về nhà ở:Qua quá trình sinh sống, do việc chặt phá rừng làm cho nguồn nguyên liệu tự nhiên cạn dần, buộc người dân phải chuyển sang sử dụng các loại nguyên liệu khác để làm nhà. Do đó, các loại hình nhà cổ truyền được chuyển sang nhà xây theo kiến trúc phương Tây; chuyển từ nhà sàn sang nhà đất hoặc nhà xây hoặc nhà nửa sàn nửa đất; chuyển từ cấu trúc sinh hoạt truyền thống sang cấu trúc thông thường… Điều này dẫn đến sự biến đổi về cách thức sinh hoạt và cách bố trí vật dụng trong ngôi nhà truyền thống, ít nhiều dẫn đến xáo trộn và thay đổi mối quan hệ trong các gia đình truyền thống trước đây.
Các giá trị văn hóa mới xâm nhập thiếu định hướng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp chưa được giữ gìn và chưa thật sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa từ bên ngoài.
- Mặt trái của cơ chế thị trường vẫn còn tác động đến quan điểm, thái độ, cũng như việc thực hiện chính sách đầu tư bảo tồn, phát triển văn hóa.
- Việc huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho văn hoá rất hạn chế do chính sách khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực.Vai trò của chủ thể, của người dân, của cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập kế hoạch, xây dựng triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự án từ cơ sở về văn hoá, ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc trong tỉnh.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá còn thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực. Người có uy tín và các nghệ nhân người dân tộc thiểu số ngày càng ít dần và chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
- Chưa có những biện pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng dân tộc đối với học sinh các dân tộc. Di sản văn hoá các dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
3. Một số đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững
Có thể nói, phát triển là một trong những quy luật tất yếu, góp phần nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người, kiến tạo nên cuộc sống công bằng, văn minh, hiện đại. Quá trình phát triển của một quốc gia, dân tộc được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau : kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, kỹ thuật…Trong đó, phát triển văn hóa được xem là nhiệm vụ song hành cùng phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa như một nguồn vốn, giống như các vốn tài nguyên, vật chất hay tài chính…là động lực cho phát triển và có quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hộ. Bởi thế văn hóa vừa là trụ cột của phát triển bền vững, song cũng là đối tượng cần phát triển bền vững. Trong đó, văn hóa tộc người là thành tố quan trọng trong văn hóa của một quốc gia đa dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc của chính quốc gia đó.
Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững, nhóm tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau:
Một là,tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, kết quả Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện được các mục tiêu chiến lược được nêu trong Đề án "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Sơn La giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững".
Hai là, tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn văn hóa, về công tác quản lý văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Các cấp ban, bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội cần nâng cao nhận thức về văn hóa, từ đó khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; thực sự phải coi “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hiện các hình thức động viên, khen thưởng, chú trọng biểu dương, nêu gương các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp này.
Ba là, tăng cường nguồn lực đầu tư cho công tác văn hóa
+ Nguồn lực tài chính: Nhà nước và các cơ quan, ban ngành trong tỉnhtiếp tục quan tâm bố trí đủ nguồn lực cho các chương trình, dự án, đề án, nghiên cứu khoa học về bảo tồn văn hóa và nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hóa các dân tộc; có chính sách hỗ trợ, phục dựng các lễ hội truyền thống; các công trình sản phẩm văn hóa; tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có công tạo dựng các công trình, sản phẩm văn hóa; phổ biến, truyền dạy nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị về văn hóa đối với các dân tộc trong tỉnh; hỗ trợ các mô hình văn hóa đặc sắc, mô hình điểm ở các bản, xã; hỗ trợ việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết của đồng bào các dân tộc.
+ Nguồn lực con người: Chú trọng công tác tuyển dụng công chức, viên chức được đào tạo đúng chuyên môn nghiệp vụ; chú trọng công tác xây dựng quy hoạch và chương trình đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn định kỳ, tập huấn hằng năm;“chuẩn hóa” cán bộ, công chức, viên chức theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ.
Bốn là, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế-xã hội,xây dựng các đề án phát triển du lịch gắn với gìn giữ, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và phát triển kinh tế.
Phải có chiến lược phát triển, phải chú ý đến tính đặc thù, phải có phương án, giải pháp, giải quyết hài hòa giữa “bảo tồn và phát triển”. Khi phát triển du lịch cộng đồng, phát triển sinh kế đối với các dân tộc phải chú trọng tới việc bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa (dệt thổ cẩm, canh tác ruộng bậc thang, trang phục, kiến trúc nhà ở… của các dân tộc), đặc biệt là các di sản theo hướng bảo vệ, tôn trọng ý kiến của cộng đồng, đề cao vai trò của cộng đồng và cộng đồng là chủ thể được hưởng lợi.
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững, nhất là trong thời đại 4.0 cần số hóa những dữ liệu cốt lõi gắn với bản sắc văn hóa đặc thù của các dân tộc. Từ đó, có thể lựa chọn đăng tải các dữ liệu trên các phương tiện truyền thông (như mạng xã hội) và truyền hình, để đông đảo người dân có điều kiện tiếp cận, tương tác, tìm hiểu thuận lợi hơn.
Năm là, đẩy mạnh việc đưa hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La vào giảng dạy tại các cấp học cũng như thường xuyên duy trì các hoạt động trải nghiệm không gian văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La tại các cấp học trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Quan tâm đến công tác giáo dục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc bằng cách đưa nội dung bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc tích hợp vào các môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với thực tế của từng trường học. Cùng với đó là giới thiệu các di sản văn hóa tiêu biểu (làn điệu dân ca, trò chơi dân gian…) cho học sinh trong các hoạt động tập thể, ngoại khóa. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, tham quan, khảo sát tìm hiểu thực tế tại các địa phương; khai thác kinh nghiệm thực tế, truyền thống văn hóa vốn có của học sinh; tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như sưu tầm ca dao, dân ca các dân tộc thiểu số, tìm hiểu về các loại nhạc cụ dân tộc, học cách sử dụng một số loại nhạc cụ dân tộc, tìm hiểu văn hóa ẩm thực của các dân tộc, tổ chức tết dân tộc, lễ hội, tổ chức các câu lạc bộ (câu lạc bộ múa, câu lạc bộ ca dao dân ca, câu lạc bộ cồng chiêng...), hội thi bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, hội diễn văn nghệ, thi trình diễn trang phục dân tộc, trưng bày bản sắc văn hóa của các dân tộc, tổ chức giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong trường học, thực hành các nghề thủ công truyền thống, liên hoan văn nghệ và trò chơi dân gian, mời nghệ nhân trên địa bàn đến truyền dạy văn hóa cho học sinh...
Sáu là, khuyến khích đồng bào các dân tộc trong tỉnh mặc trang phục truyền thống các dân tộc.
Theo Quyết định 209/QÐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch về việc thực hiện Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Cần tuyên truyền vận động người dân trên địa bàn tỉnh mặc trang phục dân tộc không chỉ trong các ngày lễ lớn mà trong cả cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Khuyến khích học sinh mặc trang phục dân tộc đến trường; có quy định vận động, khuyến khích cán bộ, giáo viên, học sinh mặc trang phục truyền thống dân tộc ít nhất 01 buổi/tuần tại các trường dân tộc nội trú và học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên là người DTTS tại các trường Tiểu học và THCS, THPT, trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Có thể nói, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc không chỉ là công việc của một cấp, ngành hay của một cá thể, không phải là công việc ngày một, ngày mai mà là công việc chung của cả cộng đồng. Để việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộcđạt hiệu quả, góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững, mỗi người dân chúng ta chính là một chủ thể góp phần vào việc bảo tồn, phát huy và giới thiệu hình ảnh văn hóa dân tộc mình, con người và mảnh đất Sơn La với bạn bè trong nước và quốc tế, mỗi chúng ta sẽ là những nhân tố tự bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc mình trước khi có sự giúp đỡ từ bên ngoài.Có như vậy, những giá trị văn hóa mới có được sức sống nội sinh và ngày càng phát triển một cách bền vững, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa bên ngoài để tiếp tục phát triển và hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La (2016), Báo cáo Thực trạng văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La
2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La (2018), Báo cáo Công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tỉnh Sơn La
3. Trần Hữu Sơn (), Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng cao. Nxb Văn hóa Dân tộc
4. Tỉnh ủy Sơn La (2016), Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng Bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc giai đoạn 2016 – 2020.
5. Tỉnh ủy Sơn La (2020), Báo cáo Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về "tăng cường sự lãnh đạocủa Đảng đối với công tác dân tộc giai đoạn 2016-2020"
6. Tỉnh ủy Sơn La (2020), Báo cáo Tình hình kinh tế xã hội 5 năm (2016 – 2020), kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2021 – 2025).

Có thể nói, quá trình hội nhập kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở Sơn La đã ít nhiều tác động tới văn hóa các dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Thái nói riêng. Dưới tác động của hội nhập, các giá trị văn hóa truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc như tiếng nói, chữ viết, trang phục, nhà cửa, ẩm thực, văn học nghệ thuật, tín ngưỡng truyền thống…của người Thái đã có nhiều biến đổi, nhiều khía cạnh bị mất đi và xuất hiện nhiều nhân tố mới thay thế truyền thống, hoặc bổ sung, làm giàu thêm truyền thống.

Về tiếng nói, chữ viết

Trong những loại hình di sản văn hóa phi vật thể, tiếng nói chữ viết là những giá trị văn hóa riêng vốn có. Dân tộc Thái có chữ viết từ thế kỷ thứ VI, theo hệ chữ Pali của Ấn Độ, thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Chữ Thái tương đối thống nhất giữa các vùng của người Thái, có khác nhau chỉ là những ký hiệu riêng của từng địa phương, ghi theo âm của địa phương mình. Hiện nay, trong Bảo tàng tỉnh và Thư viện tỉnh còn lưu giữ  hơn 1.400 cuốn sách chữ Thái cổ được viết trên giấy dó, dướng. Ngoài ra, ở trong dân cũng còn một số sách chữ Thái cổ đang được lưu giữ. Sách chữ Thái cổ có nhiều thể loại: văn học, lịch sử, răn dạy con người, tín ngưỡng…. Tại các bản có một số người biết viết, đọc và dịch những cuốn sách chữ Thái cổ, trong đó có cả phụ nữ. Tuy nhiên, số lượng không nhiều vì trước đây không phải ai cũng được học chữ, hình thức học không được tổ chức theo lớp mà chủ yếu trong gia đình tự dạy nhau, không có giáo trình.10 năm trở lại đây, các Trường CĐ, Trung tâm Giáo dục thường xuyên của Tỉnh và gần đây nhất là Trường Đại học Tây Bắc đã thực hiện việc mở các lớp đào tạo tiếng, chữ Thái – góp phần không nhỏ vào việc khôi phục và duy trì vốn tiếng, chữ Thái cho đồng bào dân tộc Thái nói riêng và các dân tộc khác quan tâm đến ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc này. Theo kết quả kiểm kê, đối với những bản ở các huyện, vùng sâu, vùng xa thì có đến 90-100% số dân trong bản biết và vẫn nói tiếng Thái, tuy nhiên, một số bản gần thị trấn, thành phố, một số người đi công tác, là công chức nhà nước, hôn nhân khác tộc nên ở thế hệ con cái một số người không biết nói tiếng Thái.

Hiện nay, việc sử dụng song ngữ Kinh – Thái trong các gia đình và cộng đồng ngày càng phổ biến. Song ngữ đã thâm nhập vào hầu hết các lửa tuổi, các mối quan hệ trong gia đình : từ vợ/chồng, bố mẹ/con cái, ông bà/chá và giữa anh chị em. Song ngữ ngày càng phổ biến trong quan hệ với đồng tộc. Việc sử dụng tiếng Kinh trong gia đình và trong môi trường cộng đồng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đặc biệt, sự chuyển đổi ngôn ngữ diễn ra chủ yếu ở nhiều thanh thiếu niên khi môi trường tiếp xúc của họ hàng ngày chủ yếu là tiếng Kinh. Họ sử dụng tiếng Kinh là chủ yếu để biểu đạt tâm tư – tình cảm.

Về trang phục

Trang phục là một trong những yếu tố dễ nhận biết đến đặc điểm và bản sắc tộc người nhưng cũng lại là yếu tố có nhiều biến đổi. Trang phục truyền thống của người Thái may bằng vải sợi bông, nhuộm chàm: nam giới mặc quần may theo lối chân què, áo xẻ ngực, khăn màu đen; ngày lễ, tết, cưới họ mặc áo dài màu đen giống như áo dài của đàn ông dân tộc Kinh, khăn dài màu đen. Phụ nữ mặc áo cóm, may theo lối xẻ ngực, đính hàng cúc bạc hình các con côn trùng hoặc hoa lá: bướm, ve sầu, nhện, lá sắn...áo bó sát thân, váy dài màu đen  (phụ nữ Thái đen may cổ áo cao, ôm khít cổ, đội khăn Piêu; phụ nữ Thái trắng may áo cổ thấp, hình trái tim; ngoài ra, Sơn La còn có các nhóm Thái địa phương cũng có đôi chút khác biệt về trang phục phụ nữ). Ngày lễ, tết, cưới phụ nữ Thái trắng mặc áo dài may theo lối chui đầu, phụ nữ Thái đen mặc áo dài may theo lối xẻ nách, cài cúc cạnh. Người Thái có trang phục tang ma, thầy mo riêng.

Tuy nhiên, hiện nay các loại trang phục được bảo tồn chủ yếu là trang phục phụ nữ, bảo tồn chủ yếu về kiểu dáng và cách thức cắt may, còn vải đã dùng vải công nghiệp là chủ yếu, chỉ  trang phục tang ma còn bảo tồn đậm nét. Dưới tác động của quá trình giao lưu văn hóa, sự hội nhập văn hóa, trang phục truyền thống đang dần bị mai một. Việc sử dụng trang phục truyền thống hiện nay chủ yếu chỉ còn ở phụ nữ trung niên và người già, tuy nhiên, chất liệu và nhiều yếu tố truyền thống của bộ trang phục đã bị thay đổi. Hiện nay, ngày thường chỉ có khoảng 20-30 % phụ nữ mặc trang phục truyền thống; trong những dịp lễ, tết có khoảng 70-80% phụ nữ mặc trang phục truyền thống. Y phục còn được bảo tồn, tuy nhiên mức độ bảo tồn đậm, nhạt ở từng địa phương khác nhau; y phục của phụ nữ, y phục ngày thường được bảo tồn đậm nét hơn. Xu hướng dùng y phục ngày thường được được cắt may bằng chất liệu, màu sắc đẹp được dùng như y phục lễ hội ngày càng tăng. Y phục được bảo tồn về kiểu dáng, còn chất liệu đã được dùng hầu hết bằng chất liệu công nghiệp. Y phục nam chỉ còn rất ít, chỉ chiếm khoảng 5-10%  dân số trong một bản sử dụng. Người Thái vẫn ưa dùng nhiều đồ trang sức, trước đây chủ yếu làm bằng bạc và hợp kim tổng hợp, ngày nay xu hướng dùng vàng làm đồ trang sức ngày càng tăng. Trang phục tang ma còn bảo tồn đậm nét.. Ở thành phố, do nhận thức được vẻ đẹp của trang phục truyền thống nên trang phục dân tộc Thái đã và đang được bảo tồn khá tốt. Một số vùng khác có sự vào cuộc của chính quyền, đưa vào hương ước của bản để quy định mặc trang phục truyền thống.

Về nhà cửa truyền thống

Người Thái ở nhà sàn, nhà của người Thái trắng có 4 mái phẳng; nhà của người Thái đen mái khum hình mui rùa, trên nóc nhà thường trang trí khau cút. Hiện nay, nhà ở đang có sự biến đổi mạnh về cả chất liệu xây dựng và kiểu dáng. Trong nhiều năm trở lại đây khi thành phố Sơn La ngày càng phát triển với nhiều công trình xây dựng, các nhà cao tầng, các trung tâm thương mại được mọc lên không gian sống của con người dần bị thu hẹp. Hình ảnh những bản dân tộc với những ngôi nhà sàn lấp ló sau rặng cây dần bị mất đi, đặc biệt ở những khu trong thành phố, ven thành phố. Trước đây người ta có thể cảm nhận được « bản trong phố » thì ngày nay dường như mọi thứ đã được hòa lẫn trong một không gian phố núi hiện đại. Người Thái hiện nay sống ở nhiều loại hình nhà cửa khác nhau và số lượng các nhà phi truyền thống đang dần chiếm ưu thế : nhà nhiều tầng, nhà mái bằng, nhà cấp 4, chỉ còn số ít nhà ở nhà sàn. Các ngôi nhà được xây dựng với nhiều kiểu kiến trúc hiện đại, khang trang, nội thất tiện nghi theo phong cách người Kinh. Hình ảnh những ngôi nhà sàn với bếp lửa, những chõ xôi, mâm tre…dần dần bị mai một.

Văn học nghệ thuật

Bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết. Ở loại hình di sản văn hóa phi vật thể này, người Thái không có các thể loại: hò, vè. Các di sản còn lại hầu như không còn nhiều, thể loại hát ru (ú lu) chủ yếu là bà ru cháu, mẹ ru con, những lời ru chủ yếu do người hát tự sáng tác (ứng tác), không có bài mẫu, vừa hát vừa nghĩ và đặt lời; Sử thi, trường ca được ghi lại trong những cuốn sách cổ, tuy nhiên người biết sử dụng không còn nhiều.

Người Thái có kho tàng truyện cổ dân gian, truyện thơ, ca dao dân ca,… với những tác phẩm nổi tiếng như: “Xống chụ xon xao”, “Khun Lú nàng Ủa”, “Tản chụ xống xương”, “Tản chụ xiết xương”,… người Thái rất yêu thích văn nghệ đặc biệt là hát dân ca (Khắp) và múa (Xòe). Trong các bản làng còn khá nhiều người biết hát, họ thường hát khi đi hỏi vợ, làm mối, hát đám cưới, các bài hát này chủ yếu hát theo hình thức ứng tác (vừa hát vừa nghĩ và đặt lời), hát đối, hát giao duyên, hát thơ (theo tác phẩm “sống chụ son sao” – Tiễn dặn người yêu); Hát tiễn hồn người chết...

Người Thái sử dụng nhạc cụ truyền thống chủ yếu: các loại sáo (pí), trống, chiêng, khèn bè, chũm chọe. Dùng sáo, khèn thổi để tỏ tình, đệm cho các bài hát dân ca. Vào những ngày lễ, hội người ta đánh trống, chiêng rộn ràng để múa vòng (xòe vòng). Hiện nay, việc sử dụng nhạc cụ dân tộc chủ yếu là các loại: trống, chiêng, chũm chọe… để làm nhạc đệm cho các điệu xòe. Một số điệu múa truyền thống vẫn được bảo tồn như: múa quạt, múa khăn, múa sạp, múa hoa, múa chai, múa quả bầu, múa nón... Mỗi bản thường có ít nhất từ 01 - 02 đội văn nghệ thường xuyên tập luyện và biểu diễn, là một trong những môi trường tốt để bảo tồn loại hình di sản này. Điệu múa xòe, múa sạp là những nét nghệ thuật đặc sắc của đồng bào Thái, được cả nước biết đến.

Người Thái không có nghệ thuật sân khấu, các loại hình ca, múa, nhạc được bảo tồn tương đối tốt, tuy nhiên một số điệu múa đã được cải biên, nâng cao, có sự tiếp thu một số tác phẩm múa của các dân tộc khác: Khơ mú, La ha…các làn điệu dân ca ngày càng ít được sử dụng, xu hướng của thanh niên hiện nay chủ yếu theo hiện đại: Nghe nhạc, hát từ đài, đĩa VCD, DVD, ti vi….

Tập quán xã hội

Bao gồm: luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác. Người Thái có nhiều tập quán xã hội mang đậm bản sắc tộc người. Hiện nay một số tập quán truyền thống vẫn được bảo lưu, một số tập quán đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp:Các luật tục đã được xây dựng thành hương ước để cả bản cùng thực hiện, hàng năm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp ; Các chuẩn mực đạo đức vẫn được giữ gìn: kính trên, nhường dưới, kính người già, yêu trẻ nhỏ… ; Các nghi lễ và phong tục truyền thống được bảo tồn tương đối tốt: lễ đầy tháng, lễ đặt tên, lễ cưới; lễ tang và một số nghi lễ khác…Tuy nhiên, một số phong tục đã được thay đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. Ví dụ : của hồi môn trong đám cưới không còn phải chuẩn bị kỹ và nhiều như lễ cưới truyền thống; hình thức ở rể hầu như không còn; thời gian tổ chức đám ma được rút ngắn cho phù hợp với nếp sống mới… Nhưng các bước tiến hành các nghi lễ hầu như vẫn giữ nguyên phong tục truyền thống.

Lễ hội truyền thống

 Người Thái không có nhiều lễ hội, lễ hội lớn nhất là như Xên Mường hoàn toàn mất hẳn, năm 2008 tỉnh Sơn La có tổ chức phục dựng lại lễ hội Xên Mường La của người Thái đen tại thành phố Sơn La nhưng sau khi phục dựng, lễ hội không được bảo tồn; lễ hội Xên bản: chỉ một số ít bản còn tổ chức 2 hoặc 3 năm một lần; một vài nơi còn tổ chức lễ hội Xên lẩu nó; Kin pang then, Hết Chá… đây là lễ hội của những người làm nghề thầy mo, thầy thuốc. Hiện nay, ngoài tết nguyên đán của dân tộc, nhân dân các bản đều lấy ngày 18/11 hàng năm (Ngày hội đại đoàn kết toàn dân) làm ngày hội lớn, cả bản tổ chức liên hoan ẩm thực, giao lưu văn hóa văn nghệ, chơi các trò chơi dân gian, thi đấu thể thao dân tộc…Bên cạnh đó, những năm gần đây, lễ hội Hoa ban được tổ chức hàng năm, kết hợp với lễ hội là các trò chơi dân gian truyền thống được phục dựng như tó má lẹ, ném còn, hội thi thêu khăn piêu… nhằm góp phần duy trì và giới thiệu những nét đặc trưng của văn hóa Thái tới các cộng đồng dân cư khác cùng sinh sống (tuy nhiên, đây không phải là hoạt động được tổ chức tại tất cả các địa phương trong tỉnh nên khả năng lan tỏa chưa đủ lớn)

Nghề thủ công truyền thống

Nghề thủ công truyền thống của người Thái vốn chỉ phục vụ cho nền kinh tế tự cung, tự cấp, không trở thành sản phẩm để trao đổi, không có các làng bản chuyên về nghề thủ công truyền thống. Do sự chi phối nhiều mặt của nền kinh tế thị trường và cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó phải kể đến sự tiện lợi, hình thức đẹp, giá thành phù hợp của các loại hình sản phẩm thủ công, bên cạnh đó, việc sản xuất các mặt hàng này theo phương thức công nghiệp hiện đại lại có tác dụng giải phóng sức lao động của con người nên hiện nay một số nghề thủ công truyền thống đã và đang bị mai một, đặc biệt là ở vùng I (thị trấn, thành phố).Cụ thể : Nghề đan lát mây tre, đan chài, đan lưới, nghề nhuộm chàm, nuôi tằm, dệt vải còn rất ít gia đình làm, một số rất ít gia đình đi mua sợi và len ở chợ về để dệt thổ cẩm. Mỗi bản chỉ còn lại một vài hộ còn dệt vải. Khăn piêu của người Thái Đen vẫn được thêu nhưng hiện nay chủ yếu dùng sợi len để thêu.Nghề rèn chỉ còn 1-2 hộ/ bản, thậm chí nhiều bản không có hộ nào làm; sản phẩm cũng không nhiều, chủ yếu là sửa chữa các loại dụng cụ đang dùng của gia đình và trong bản. Nghề đan chiếu chỉ còn một vài nhà. Nghề gốm chỉ còn duy nhất 01 gia đình làm tại vùng gốm Mường Chanh nổi tiếng đang làm để giữ nghề chứ không có hiệu quả kinh tế.

Tri thức dân gian

Bao gồm tri thức về thiên nhiên, đời sống con người, lao động sản xuất, y, dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác. Những tri thức dân gian hiện nay ít được sử dụng do đã áp dụng khá nhiều khoa học kỹ thuật tiến bộ vào lao động sản xuất: Tri thức về lao động sản xuất: Kỹ thuật dẫn thủy nhập điền vẫn được bảo tồn song song với việc tiếp thu kỹ thuật dẫn nước hiện đại; Về y dược học cổ truyền: Ngoài việc đến bệnh viện thì vẫn còn một số người biết bốc thuốc nam chữa bệnh, một số hộ gia đình vẫn cúng ma, gọi hồn khi bị đau ốm, đặc biệt là những gia đình gặp chuyện không may mắn. Về sử dụng lịch Thái: Hiện nay đa số người Thái vẫn sử dụng lịch của mình để xem ngày cúng cơm cho bố mẹ, ngày cưới hỏi, làm nhà…tuy nhiên chỉ có những người biết chữ Thái, thầy mo mới biết xem ngày, tháng cụ thể, còn những người bình thường chỉ xem theo trí nhớ của mình để cúng cơm…

Về ẩm thực

Người Thái có rất nhiều món ăn đặc sắc được chế biến từ lương thực, thực vật; động vật, thủy sản… ngoài ra họ còn dùng nhiều loại côn trùng để chế biến món ăn: dế mèn, châu chấu, bọ sít, niềng niễng… Họ có nhiều phương thức để chế biến các món ăn: Nướng, đồ, làm khô, làm mắm…họ cũng dùng rất nhiều loại gia vị để chế biến món ăn, vừa ngon miệng, vừa đảm bảo sức khỏe. Ẩm thực của người Thái được bảo tồn tương đối tốt về cả cách thức chế biến, các loại thực phẩm, gia vị lẫn phong cách đón tiếp khách. Người Thái vẫn yêu thích các món ăn của dân tộc mình và tự nguyện gìn giữ, bảo tồn. Hiện nay, một số món ăn của người thái đã trở thành các sản phẩm để giới thiệu tại các nhà hàng, khách sạn, phục vụ khách du lịch đến Sơn La và được quảng bá ở một số tỉnh, thành phố trong cả nước. Tuy nhiên, một số gia đình không còn giữ gìn cách chế biến truyền thống trong các bữa ăn hàng ngày, kể cả trong tiếp đón khách, thậm chí các món ăn trong đám cưới cũng đã tiếp nhận ảnh hưởng “đậm đặc” phong cách ẩm thực của người Kinh.

Biến đổi trong món ăn của người Thái có xu hướng đáp ứng tính tiện dụng và sự đổi thay về sản xuất, thị trường và môi trường tự nhiên. Nguồn lương thực và thực phẩm thay đổi khiến cơ cấu bữa ăn và món ăn của người dân cũng thay đổi. Nhiều món ăn truyền thống mất đi do không còn nguyên liệu, nhất là những món ăn khai thác từ tự nhiên. Một số món ăn ít được chế biến do cầu cầu kỳ, tốn thời gian.

Người Khơ Mú tự gọi mình là Khmụ, Kmh mụ hoặc Kừm mụ tuỳ theo cách phát âm ở từng địa phương. Những tên ấy đều có nghĩa là người hay cộng đồng người. Trước năm 1954, người Khơ Mú thường được người Thái gọi là Xả hay Phủ Xả (người Xá), hay Thềnh (Tênh – người ở núi cao).

Người Khơ Mú tại Yên Châu tính đến 2020 có 69 hộ 337 nhân khẩu. Trong đợt khảo sát điền dã tháng 5 năm 2022, tại Bản Thàn, xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, nhóm tác giả đã có điều kiện tiếp xúc và ghi nhận được, người Khơ Mú tại Yên Châu tập trung chủ yếu tại Bản Thàn, xã Chiềng Pằn (56 hộ, 295 nhân khẩu); ngoài ra, còn một số sống xen kẽ với các nhóm dân tộc khác (chủ yếu là người Mông, Xinh Mun) tại các xã Phiêng Khoài, Viêng Lán, Nà Và, Tú Nang, Huổi Khoa…;

Bản Thàn có 100% dân số là người Khơ Mú sinh sống (có một số hộ đan xen với các dân tộc khác do quan hệ hôn nhân với các nhóm người Thái, người Mông, người Kinh, người Puộc…) thuộc ba dòng họ khác nhau (Họ Mè từ Mai Sơn di cư xuống; họ Hà từ Nghệ An ra và họ Lừ từ Nghĩa Lộ sang); tên Thàn nghĩa là “người dưng”, bản Thàn là bản của những người dưng được đặt từ thời phong kiến để chỉ những người Khơ Mú đồng tộc nhưng khác họ về cư trú cùng nhau tại bản.

 Bản Thàn tiếp giáp với bản Tô Tang, bản Phát (người Thái) và bản Chiềng Phú (người Kinh); Bộ phận người Khơ Mú ở Yên Châu có quan hệ với những người đồng tộc của mình ở Thanh Hóa, Nghệ An và cũng mới có mặt tại đây khoảng hơn 200 năm.

Do địa bàn sinh sống nên hoạt động kinh tế, đời sống văn hóa của người dân trong bản cũng có nhiều khác biệt. Họ không trồng lúa nương mà trồng lúa ruộng và ruộng bậc thang; ít trồng ngô mà trồng cây mía; nhiều giá trị văn hóa truyền thống trong tang ma, cưới xin, bên cạnh chịu ảnh hưởng văn hóa của người Thái còn lưu giữ được nhiều nét riêng như tiếng nói, chữ viết; điệu múa au eo truyền thống hay nhiều nghi thức riêng liên quan đến nghi thức đời người như cưới xin, tang ma…

1. Hoạt động kinh tế của người Khơ Mú tại Bản Thàn

1.1. Nông nghiệp

 Hoạt động kinh tế chính của người Khơ Mú là làm nương rẫy, Xả kin xắp phay, Tay kin xắp nặm (Xá ăn theo lửa/rẫy, Thái ăn theo nước/ruộng), gắn với cuộc sống du canh du cư. Cây lương thực chính là lúa nương, ngoài ra còn trồng thêm các loại hoa màu khác như bí, ngô, khoai, sắn, ...; vật nuôi chủ yếu là trâu, bò, gà, lợn.

Khi người Khơ Mú chuyển sang lối sống định canh, định cư, hoạt động kinh tế của người Khơ Mú đã có nhiều thay đổi. Người Khơ Mú tại bản chỉ trồng lúa ruộng, canh tác 1 vụ/năm chứ không làm rẫy như các nhóm Khơ Mú tại các nơi khác.

Lúa nước có hai loại là lúa tẻ và lúa nếp. Hiện nay, người Khơ Mú cũng sử dụng các giống lúa mới giống người Kinh và người Thái như OM 5451, OM 4900, các loại giống nếp nhoi và nếp tan... cứ 1ha thu hoạch được 5 – 7 tạ; có hộ đất tốt và chăm sóc tốt, sản lượng thu được khoảng 8 tạ thóc/ha/năm. Ở bản Thàn, người Khơ Mú đã biết cách sử dụng hệ thống thủy lợi như của người Thái, biết sử dụng nhiều giống lúa mới để tăng năng suất cũng như sử dụng thuốc diệt cỏ, phân hóa học cho canh tác cây lúa.

Vào mùa đông, do thiếu nước nên lúa chiêm xuân ở bản chết nhiều. Bên cạnh đó, những thửa ruộng nước này đều không thuận lợi cho cây lúa nước phát triển (độ màu kém, chỉ có nước một vụ) nên thu nhập từ cây lúa không cao.

Ngoài trồng lúa, bà con còn trồng các loại bầu bí; cây ăn quả quanh nhà (xoài, mận nhưng chưa theo tiêu chuẩn Vietgap nên thu nhập không đáng kể). Cách đây 10 năm, người dân trồng thêm ngô và sắn để bổ sung thêm cho bữa ăn mùa giáp hạt. Ở bản Thàn, cây ngô giữ vai trò chủ đạo do tính chất hợp với khí hậu nóng. Cây ngô được trồng với diện tích 25ha/toàn bản, từ tháng 3, đến tháng 9 cho thu hoạch, năng suất khoảng 6 - 8 tấn/ha/vụ. Đặc biệt, từ 20 năm trở lại đây, người Khơ Mú tại bản chuyển đổi sang trồng mía bán cho nhà máy Mía đường của huyện Mai Sơn để tăng thêm thu nhập cho các hộ dân trong bản (54/56 hộ trồng). Nhờ cây mía, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện, nhiều gia đình không chỉ đủ ăn mà còn có tích lũy, mua sắm được các trang thiết bị trong gia đình như tivi, quạt, tủ lạnh, xe máy...

Thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình, người Khơ Mú ở bản Thàn đã nhận 195ha rừng để chăm sóc và bảo vệ.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm ở người Khơ Mú đã khá phát triển. Mục đích chăn nuôi chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu trong các nghi lễ, tín ngưỡng như ma chay, cưới xin, dựng nhà mới, cúng bái. Sản phẩm của chăn nuôi cũng chỉ nhằm tự túc, tự cấp là chính, chưa mang tính hàng hóa. Các giống vật nuôi gồm: trâu, bò, lợn, gà, chó, dê. Mỗi hộ trong bản đều nuôi lợn đẻ (2 lứa lợn con/năm có thể bán để tăng thêm thu nhập); bò nuôi để bán khi giáp hạt và phục vụ tín ngưỡng; trâu chủ yếu được nuôi để làm sức kéo... Một số hộ gia đình trong bản cũng nuôi dê để tăng thêm thu nhập cho gia đình.

1.2. Thủ công nghiệp

Có thể nói, nghề thủ công phổ biến nhất và cũng phát triển nhất của người Khơ Mú là nghề đan lát. Ngoài mục đích sử dụng trong gia đình, các sản phẩm đan lát của họ còn phục vụ trao đổi với các nhóm cư dân khác, nhất là người Thái. Hiện nay, đan lát chủ yếu để phục vụ nhu cầu sử dụng tại bản, ngoài ra, các hộ cũng mua thêm các vật dụng từ nhựa có sẵn trên thị trường.

Nguyên liệu dùng để đan lát khá phong phú, gồm: Các loại cây họ tre, nứa như tờ nếch (vầu),  tờ la (nứa), tờ rờ se (giang), jạac (vầu đắng), mạy phay (tre gai); các loại dây thuộc họ song, mây gồm 7 loại: bloọng chăng, bloọng chik, bloọng glạ, bloọng grẹt, bloọng nuôl, bloọng rưing, bloọng knệ. Hiện nay, bên cạnh nguyên liệu khai thác trong tự nhiên, người Khơ Mú còn sử dụng một số nguyên liệu công nghiệp (chủ yếu là dây ni lông, dây bao tải dứa) xe làm sợi đan vợt xúc cá. Các sản phẩm đan lát gồm: mâm (phươn), ghế ngồi (săn đên), các loại gùi (yăng, khrông ja, khrông nhịk), ép đựng xôi (ep mah), giỏ tra hạt (hot), bem đựng quần áo (plụm), ghế mây… cho đến các loại thúng, mủng, nong, nia, sàng, sẩy, cót phơi, quạt, lồng gà, các loại đó cá cùng với các sản phẩm đan từ dây cước, gai (chài, vợt xúc cá...).

Trước kia, người Khơ Mú cũng đã biết dệt vải. Họ chỉ dệt được loại vải thô, khổ rộng 30cm, chỉ dùng để may túi, khăn, không đáp ứng được nhu cầu tự túc, tự cấp vải mặc, nên phải dùng các sản phẩm đan lát đổi lấy vải vóc với người Thái về dùng. Tuy nhiên, nghề dệt của người Khơ Mú không mấy phát triển. Hiện nay, không còn thấy khung cửi tại các gia đình trong bản, phụ nữ chỉ thêu khăn piêu vào lúc nông nhàn còn vải may quần áo, phục vụ nghi lễ đều mua ngoài thị trường.

2. Đời sống văn hóa vật chất của người Khơ Mú tại Bản Thàn

2.1. Nhà cửa

Người Khơ Mú ở nhà sàn, cột chôn, mái hình khum mai rùa. Những gia đình chưa có hoặc không có điều kiện làm nhà to thì thường ở nhà nửa sàn nửa đất. Nhà thường có 3 gian, một cầu thang lên xuống; trong nhà có 2 bếp (bếp nấu nướng hằng ngày và một bếp chỉ nấu nướng khi làm lễ giỗ tổ dòng họ).

Bộ khung nhà được liên kết bằng hệ thống cột, sà ngang, sàn, các vì kèo và khung sườn mái. Nhà chủ yếu dùng ngoãm tự nhiên và lạt buộc. Mặt bằng sinh hoạt được chia thành phần ngoài, phần trong, phần trên và phần dưới. Trong nhà cũng được ngăn thành các buồng ngủ. Nơi thờ ma nhà được bố trí trong một buồng riêng, tại gian sát hồi sau. Đây là nơi linh thiêng, nên cấm phụ nữ và khách lạ ra vào.

2.2. Y phục và trang sức

Bộ y phục của phụ nữ Khơ Mú gồm: Áo, váy, khăn đội đầu, dây lưng và xà cạp. Trong các thành tố của bộ y phục nữ, váy, dây lưng, khăn đội đầu và xà cạp đều giống như y phục của phụ nữ Thái Đen. Riêng áo thì khác. Đó là kiểu áo ngắn, xẻ ngực, cắt may bằng vải chàm đen; cổ liền hình trái tim, can nẹp bằng vải đỏ và được khâu đáp thêm hai dải hoa văn chạy sọc từ cổ áo xuống mép tà; khuy cài bằng 4 miếng bạc hoặc nhôm hình chữ nhật gọi là mắc pám. Ống tay áo rộng, được can nối với nách vai áo bằng đường thêu chỉ màu đỏ; phần gấu áo được can bằng vải đỏ rộng khoảng 5cm. Hầu hết phụ nữ, thiếu nữ khi lao động thì đi chân đất, còn khi đi chợ thì đi dép nhựa.

Trang sức phụ nữ Khơ Mú giống với trang sức của phụ nữ Thái Đen, gồm: Vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, trâm cài tóc chế tác bằng bạc hoặc nhôm. Thường chỉ trong các dịp tết lễ, cưới xin, hội hè, người dân mới đeo đồ trang sức, còn ngày thường hay khi đi làm hầu như họ không đeo đồ trang sức.

Bộ y phục truyền thống nam giới Khơ Mú giống với y phục nam giới Thái Đen, gồm: Quần chân què, áo cánh 3 túi, cài khuy bằng dây vải, được cắt may bằng vải nhuộm chàm, màu đen. Hiện nay, nam giới Khơ Mú chủ yếu mặc theo y phục người Kinh..

2.3. Ăn, uống, hút

Nguồn lương thực dùng trong bữa ăn hằng ngày của người Khơ Mú là: gạo, ngô, khoai, sắn, trong đó gạo (nếp và tẻ), ngô là chính; khoai, sắn chủ yếu dùng để độn với gạo. Những khi giáp hạt, mất mùa, thì khoai, sắn, là nguồn lương thực giúp họ vượt qua nạn đói kém. Nguồn thực phẩm dùng để chế biến thức ăn gồm: các loại thịt, cá, côn trùng, nhộng; các loại rau, măng tự trồng hay thu hái trong tự nhiên.

Các món chế biến từ lương thực

 Cũng như người Thái, trước đây, người Khơ Mú chủ yếu ăn xôi nếp đồ (hmạ nưng). Tuy nhiên, họ thường ít khi làm xôi ngũ màu. Quy trình đồ xôi cũng như dụng cụ đồ giống như ở người Thái và các tộc người láng giềng trong vùng. Riêng gạo tẻ thì được nấu theo cách nấu của người Kinh. Ngô, khoai, sắn ngoài luộc/nướng ăn phụ còn được độn với gạo nếp đồ hoặc độn gạo tẻ nấu thành cơm. Ngoài đồ, nấu, nếp còn được nấu trong ống nứa (hmạ lam); gói bánh sừng bò, làm bánh chưng (hmạ gấp) và các loại bánh làm bằng bột ngô, gạo nhân đường.

Các món ăn chế biến từ thực phẩm, rau cỏ

Các món chế biến từ thịt gồm: Luộc, nướng, muối chua, sấy khô (aprui), nấu canh, rang, ăn tái, gỏi. Một trong những món ăn hợp khẩu vị nhất của người Khơ Mú là lam nhoọc hay còn gọi là ả chặn. Đây là một loại canh nấu bằng các loại thịt đã có mùi, trộn rau (10 loại rau non như bí, lá ớt, lá dâu…), bột sả nướng, tấm gạo và gia vị. Canh được nấu trong nồi hoặc cũng có thể đun trong ống nứa. Khi chín, canh thường sền sệt, ăn có vị béo ngậy, thường dùng xôi chấm hoặc ăn với cơm tẻ. Người Khơ Mú cũng có món brịa, ruột non của các loại thú ăn cỏ như kiểu nặm pịa của người Thái. Ruột non trộn gia vị (gừng, bột sả, hạt tiêu rừng, muối, ớt), đun sôi chấm với rau luộc, rau tươi, chấm xôi. Một cách làm nữa là dùng ruột non gác bếp, sau đó nấu với măng tươi.

Các món chế biến từ cá gồm: Nướng, rang, nấu canh (cá không hoặc trộn rau, măng, gạo rang rồi giã như tấm), muối chua, đồ (khi có nhiều cá). Ngon nhất và phổ biến nhất là cá nướng hay cá lam trong ống nứa. Thường thì các loại cá trắng, có vẩy thì nướng, còn cá đen, da trơn thì nấu canh hoặc rang. Món pịa cá trộn gia vị vùi gio bếp, dùng để chấm xôi cũng rất được ưa chuộng.

Các món chế biến từ nhuyễn thể thường là nấu canh, rang với mẻ, làm chẻo (cá con, cua, nòng nọc). Các món chế biến từ rau gồm: Nấu canh, luộc, đồ, nướng, làm nộm, muối chua, vùi gio hay sau này có thêm xào.

 Đồ uống

Do đặc trưng của huyện Yên Châu là trồng rất nhiều chuối nên người Khơ Mú ở bản Thàn có thói quen nấu rượu chuối. Rượu chuối của người Khơ Mú được nấu từ chuối nguyên chất nên rất nặng, không uống được nhiều. Hiện nay, trong bản có khoảng 30 – 40% hộ dân nấu rượu để sử dụng và bán cho các gia đình trong bản. Do vị thơm đặc trưng của rượu chuối tại đây nên rất nhiều người ở các bản khác và quanh thị trấn đến tìm mua. Rượu chuối thường được đóng vào bom (1,5 lít) với giá 40.000 đồng/lít góp phần đem lại thu nhập thêm cho một bộ phận người dân trong bản.

Nói đến đồ uống truyền thống của người Khơ Mú, không thể không nhắc đến rượu cần (bụi xà). Đây cũng loại rượu được người Khơ Mú rất ưa chuộng. Rượu cần là loại rượu được nấu từ sắn, gạo, hoặc ngô, không chưng cất, mà sau khi ủ trong chum thì đổ nước lã vào rồi cắm cần để hút. Cách làm khá đơn giản. Sắn, gạo hoặc ngô được luộc hay đồ chín, tãi ra mẹt rải đều men lên, rồi ủ kín 3 ngày - 7 ngày, sau đó trộn với vỏ trấu đã đồ ấm (nhằm khi uống không bị tắc cần), rồi nhồi vào chum, đặt cạnh bếp lửa từ 3 hoặc 5 ngày trở lên, khi ngửi thấy mùi thơm là có thể uống được. Rượu cần của người Khơ Mú thường có 5 vị: Ngọt, đắng, chua, mặn nồng, nên rất có ích cho việc tiêu hóa. Ở người Khơ Mú, rượu cần được uống trong các dịp tết lễ, cưới xin, lên nhà mới; khi khách quý đến nhà. Có thể nói, tiếp khách bằng rượu cần ở họ, cũng giống như người Kinh tiếp khách bằng nước chè vậy. Bộ đồ dùng để uống rượu cần gồm: Nồi đồng (trước kia) đựng nước lã, nay đựng trong chậu nhôm to, gáo múc nước bằng ống nứa, sừng trâu đong nước và bộ ống cần bằng trúc hoặc mây dùi lỗ.

3. Đời sống tinh thần của người Khơ Mú tại Bản Thàn

3.1. Cưới hỏi

 Tục lệ cưới xin của người Khơ Mú trải qua nhiều bước với nhiều nghi thức như: tìm hiểu, dạm ngõ (Prkhát cămbrạ), ăn hỏi (gio manh căm brạ), xin ở rể (Manh veech gút cămbrạ), tiễn rể sang nhà vợ (Srông veech gút cămbrạ), lễ hợp hôn (Pưn đệ), lễ cưới (căm brạ) và lễ lại mặt (hấp êm).

            Hiện nay, các thủ tục rườm rà trong đám cưới cũng đã được giản lược để phù hợp với nếp sống mới cũng như điều kiện sống của các gia đình trong bản. Tuy nhiên, có một số nghi thức bắt buộc phải có theo truyền thống của người Khơ Mú vẫn được gìn giữ. Thứ nhất, trong đám cưới chính, trên mâm thờ để báo với tổ tiên bắt buộc phải có một đôi gà luộc, thịt lợn để cúng; thứ hai, các thủ tục cần có: 8 đồng bạc trắng, một đôi vòng bạc, 1 đôi chum rượu cần; trong khi tiến hành nghi lễ, đôi vòng bạc sẽ được bỏ vào hai cần rượu để cô dâu, chú rể cùng uống; sau khi uống, đôi vòng bạc sẽ được đeo cho cô dâu cùng với một đôi nhẫn vàng, trâm cài tóc, búi tóc, tóc giả để thực hiện nghi lễ “tẳng cẩu”.     

3.2. Tang ma

Người Khơ Mú quan niệm khi chết, hồn sẽ về sống tại thế giới của ma, được gọi là cuôi ptê nằm trong khu vực nghĩa địa của bản. Người Khơ Mú quan niệm, cuộc sống của người chết trái ngược với trần gian. Nếu ở trần gian là ngày thì dưới đó là đêm và ngược lại và thế giới của người chết cũng có đủ mọi thứ như ở trần gian: Cũng sống thành từng bản làng riêng, mặc quần áo, làm nương rẫy, chăn nuôi trâu, bò, gà, lợn... như trên cõi trần. Tại bản Thàn, khu rừng ma rộng 1,7ha nằm riêng tại một khu của bản. Đến nay, khu rừng này vẫn đang là khu rừng thiêng của bản, cấm người dân vào chặt phá, chỉ khi có đám ma mới được phép ra vào khu rừng này. Vì thế, nó đang góp phần tạo ra và giữ lá phổi xanh cho sự phát triển của các hệ sinh thái trong rừng và đời sống của người dân trong bản.

Khi có người mất, theo lệ, gia đình phải mổ một con lợn để làm cơm vĩnh biệt người đã chết. Nấu nướng xong, người ta bầy cạnh quan tài một sải vải trắng, một con dao, một chai rượu, một cái bát, một ống nước và một đĩa đựng thức ăn nấu chín, một cái rương đựng quần áo và hai ngọn nến ở phía đầu và phía chân. Theo quan niệm xưa, khi gia đình có người mất, những người thân trong nhà sẽ phải đi tát suối 3 ngày để mò cua, ốc cho vào túi buộc lại để mang về cúng cho người chết. Hiện nay, thời gian chỉ còn là nửa buổi, con rể sẽ là người cắt gói cua ốc này rồi mang đi chôn cùng với người chết.

Thông thường, thi hài được quàn trong nhà hai hoặc ba ngày trước khi đem đi chôn. Hiện nay, chỉ còn để một đến hai ngày trong nhà để đảm bảo vệ sinh cũng như bớt các thủ tục rườm rà.

Mộ người chết được đắp thành ụ cao, bên trên dựng nhà mồ, lợp gianh (hiện nay lợp tôn hoặc xây tùy vào điều kiện của người sống cũng như mong muốn của người chết) và được rào qua loa. Người Khơ Mú quan niệm giống người Thái, người chết là hết nên có tục lệ đào sâu, chôn chặt, không hỏa táng mà địa táng, không có tục lệ thăm mộ như các dân tộc khác.

Theo tập tục của người Khơ Mú, khi trong bản có người chết thì cả bản đều nghỉ việc để lo phúng viếng và giúp tang chủ việc tang ma. Việc giúp đỡ này là hoàn toàn tự nguyện và người Khơ Mú coi việc giúp đỡ này không chỉ là tình cảm mà còn là nghĩa vụ giữa những người trong cộng đồng.