SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH THÀNH PHẦN

MỘT SỐ DÂN TỘC VÀ TÊN GỌI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY BẮC - VIỆT NAM TRONG CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

 

                                                                                                                       PGS.TS. Phạm Văn Lực, ThS. Lò Văn Nét

                                                                                                                                    Trường Đại học Tây Bắc

            Tóm tắt

            Bài viết đề cập khái quát về các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc (Việt Nam), những bất cập trong cách phân chia nhóm dân tộc và dân tộc ở một số công trình đã công bố; hướng điều chỉnh cho hợp lý, khoa học; ý nghĩa của sự điều chỉnh đó đối với đời sống xã hội và trong lĩnh vực học thuật.

           ĐẶT VẤN ĐỀ

           Ngay từ khi hình thành dân tộc, Việt Nam đã là quốc gia có đa thành phần dân tộc, cho đến nay cộng đồng dân tộc Việt Nam có 54 dân tộc, riêng ở Tây Bắc (Việt Nam) có  26 dân tộc. Về tiêu chí phân chia, gọi tên các dân tộc bao gồm nhiều tiêu chí khác nhau, nhưng quan trọng nhất là ý thức tộc người; tuy nhiên, trong thực tế hiện nay trước những biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế xã hội, văn hóa cũng đặt ra nhiều vấn đề về tên gọi các dân tộc và nhóm dân tộc ở Việt Nam nói chung, Tây Bắc nói riêng. Vì thế, bài viết với tham vọng bàn đến một số ý trong vấn đề này, góp phần chỉ ra những bất cập trong cách phân chia nhóm dân tộc và tên gọi một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, cùng hướng giải quyết khoa học hợp lý, phù hợp với thực tế hiện nay.

           NỘI DUNG

  1. Khái quát về các dân tộc ở Tây Bắc

Tây Bắc là cách gọi theo phương vị lấy Thủ đô Hà Nội làm chuẩn. Cho đến nay mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau về địa giới của Khu Tây Bắc, nhưng theo chúng tôi Tây Bắc chủ yếu bao gồm các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và một phần của Hòa Bình.

Những lợi thế về vị trí địa lí, cùng sự đa dạng, phong phú của điều kiện tự nhiên không chỉ khiến cho Tây Bắc có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và trong quan hệ giao lưu quốc tế mà còn thuận lợi cho con người sinh sống.

Từ rất sớm trong lịch sử, vùng đất Tây Bắc đã thu hút được cư dân trong vùng và cư dân từ nơi khác đến làm ăn sinh sống trên mảnh đất này, tạo nên một thiết chế xã hội độc đáo đậm đà sắc thái bản địa. Cho đến nay, Tây Bắc là địa bàn sinh sống lâu đời của 26 dân tộc anh em; trong đó, đông nhất là dân tộc Thái chiếm khoảng 53 % dân số trong Vùng [9]. Các dân tộc ở Tây Bắc thuộc nhiều ngữ hệ khác nhau:

* Ngữ hệ Nam Á, theo cách phân chia trước đây có tổng số 32 dân tộc, trong đó ở Tây Bắc có 9 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Mông, Dao, Khơ mú, Kháng, Xinh Mun, La Ha.

            * Ngữ hệ Tày – Thái, ở Tây Bắc có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Lào, Lự, Giáy, Sán Chay (Cao Lan-Sán Chỉ), Bố Y

            * Ngữ hệ Hán-Tạng, có 9 dân tộc ở Tây Bắc: Hoa, Sán Dìu, Ngái, Hà Nhì, Phù Lá, La Hủ, Lô Lô, Cống, Si La[2].

Hiện nay, đã có nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu về các dân tộc ở Việt Nam nói chung, Tây Bắc nói riêng, tiêu biểu là: cuốn “Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam” của Ban Dân tộc Khu tự trị Tây Bắc phát hành năm 1972; cuốn: “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huy, do Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội xuất bản năm 2007; giáo trình “Dân tộc học Đại cương” của Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội xuất bản năm 2005; cuốn “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” của tập thể tác giả Vi Văn An, Nguyễn Văn Huy…do Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội xuất bản năm 2010…

Do điều kiện chủ quan và khách quan, cộng với những khó khăn về tài liệu, nên mỗi công trình đều có những ưu điểm và còn những hạn chế nhất định.

  1. Những bất cập trong cách phân chia nhóm dân tộc và tên gọi dân tộc ở Tây Bắc (Viêt Nam) qua một số công trình đã công bố

Về tên gọi các dân tộc và cách phân chia nhóm dân tộc trong một số công trình đã công bố (Dân tộc học đại cương, Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Cộng đồng các dân tộc Việt Nam…) nhìn chung tương đối phù hợp; tuy nhiên, vẫn còn những bất cập trong cách phân chia ở một số nhóm và tên gọi dân tộc thiểu số, cụ thể là:

* Cuốn “Các dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam” của Ban Dân tộc Khu Tự trị Tây Bắc ấn hành năm 1972 đã phác thảo chân dung của 23 dân tộc anh em ở Tây Bắc một cách khá tiêu biểu, nhưng trong cách gọi tên một số dân tộc thiểu số vẫn có hạn chế; ví dụ dân tộc Khơ Mú gọi là dân tộc Xá, như vậy là không chuẩn, bởi dân tộc Xá bao gồm cả dân tộc La Ha, Xinh Mun, La Ha và được dùng từ thời Pháp thuộc, lại có tính chất miệt thị…[2]  

* Trong cuốn giáo trình “Dân tộc học Đại cương” của Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội năm 2005 [4], có phân chia các dân tộc ở Việt Nam thành 4 ngữ hệ như sau:

- Ngữ hệ Nam Á, bao gồm:   

+ Nhóm Việt - Mường: ở Tây Bắc gồm dân tộc Kinh, dân tộc Mường

+ Nhóm Mông - Dao: ở Tây Bắc gồm dân tộc Dao, dân tộc Mông

+ Nhóm Môn - Khơ Me: ở Tây Bắc có dân tộc Kháng, dân tộc Khơ Mú, dân tộc Mảng, dân tộc Xinh Mun.

+ Nhóm hỗn hợp: ở Tây Bắc có các dân tộc Cơ Lao, dân tộc La Chí, dân tộc La Ha.

- Ngữ hệ Tày - Thái: có các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Lào, Lự, Giáy, Sán Chay (Cao Lan-Sán Chỉ), Bố Y.

- Ngữ hệ Hán - Tạng, bao gồm:

+ Nhóm tiếng Hán: gồm các dân tộc Dân tộc Hoa, dân tộc Sán Dìu

+ Nhóm Tạng - Miến: bao gồm các dân tộc Cống, dân tộc Hà Nhì, dân tộc La Hủ, dân tộc Lô Lô, dân tộc Phù Lá, dân tộc Si La [5, tr.102].

- Ngữ hệ Nam Đảo: ở Tây Bắc không có.

Như vậy, ở công trình này cách phân nhóm dân tộc và tên gọi một số dân tộc chưa cập nhật được những thành tựu mới nhất của khoa học bộ môn đã đạt được.

* Trong cuốn “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Huy Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội năm 2007 [7], có đề cập đến dân tộc Thổ là những nhóm cư dân ly khai từ dân tộc Kinh, dân tộc Mường hình thành nên; nhưng ở phần dân tộc Tày (thuộc nhóm tiếng Tày - Thái) lại cho rằng dân tộc Tày còn có tên gọi khác là dân tộc Thổ; cũng có khi cả hai dân tộc Tày, Nùng vùng Việt Bắc cũng được gọi là dân tộc Thổ, nhưng trường hợp này lại được hiểu là “thổ công” (người bản địa)… Hoặc dân tộc Chứt có tên gọi khác là Rục, Arem, Sách; nhóm địa phương còn gọi là Rục, Mày, Sách, Arem, Mã Liềng; tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (Ngữ hệ Nam Á). Hoặc trong cuốn “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam[7] có đề cập đến dân tộc Sán Chay, gồm có hai dân: tộc Sán Chỉ (dùng tiếng Hán, văn hóa Hán), dân tộc Cao Lan (văn hóa Tày, dùng tiếng Tày…) và bản thân trong ý thức tự giác tộc người của hai dân tộc này (Sán Chỉ và cao Lan) không ai tự nhận mình là dân tộc Sán Chay, nhưng lại ghép cùng một dân tộc là hết sức bất cập [7, tr.155]. Ngay trong thực tế ở Trường Đại học Tây Bắc, một số sinh viên là con em đồng bào dân tộc Sán Chay, nhưng lại khai mình là dân tộc Cao Lan.

* Trong cuốn: “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” của tập thể tác giả Vi Văn An, Nguyễn Văn Huy…Nhà xuất bản Giao dục Hà Nội năm 2010[1] có phân chia ngữ hệ các  dân tộc ở Việt Nam, trong đó có ngữ hệ Thái - Kadai, ở Tây Bắc có các dân tộc:

+ Dân tộc Bố Y

+ Dân tộc Giáy

+ Dân tộc Lào

+ Dân tộc Lự

+ Dân tộc Nùng

+ Dân tộc Tày

+ Dân tộc Thái

+ Dân tộc Sán Chay

Trong công trình này, các tác giả có chuyển 4 dân tộc: La Chí, La Ha, Cơ Lao, Pu Péo trước đây thuộc ngữ hệ Nam Á (nhóm hỗn hợp) sang ngữ hệ Thái – Kadai [1, tr.55, tr.95, tr.99, tr.145]; nhưng 3 dân tộc La Chí, Cơ Lao, Pu péo ở vùng Việt Bắc và Tây Bắc đều có, riêng dân tộc La Ha chỉ có ở Tây Bắc.

Như vậy, trong một số công trình đã công bố (Các dân tộc ở Tây Bắc Việt Nam, Dân tộc học đại cương, Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam) vẫn chưa cập nhật được những thành tựu mới của khoa học bộ môn về phân chia các nhóm dân tộc (trong ngữ hệ) và tên gọi một số dân tộc ở Việt Nam như đã trình bày ở trên…Vì thế, cần thiết phải có sự điều chỉnh sắp xếp lại một số nhóm dân tộc và tên gọi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung, các dân tộc ở Tây Bắc nói riêng cho hợp lý và phù hợp với thực tế hiện nay.

  1. Hướng điều chỉnh và sắp xếp lại một số nhóm dân tộc và tên gọi dân tộc ở Tây Bắc

Theo chúng tôi, hướng điều chỉnh nhóm dân tộc và tên gọi một số dân tộc thiểu số ở Tây Bắc được thực hiện theo hướng sau:

Thứ nhất, việc phân chia nhóm dân tộc trong Ngữ hệ Nam Á giảm từ 4 nhóm trước đây xuống còn 3 nhóm dân tộc, cụ thể là:

+ Nhóm Việt - Mường: gồm dân tộc Kinh, Mường, Thổ

+ Nhóm Mông - Dao: gồm dân tộc Dao, dân tộc Mông

+ Nhóm Môn - Khơ Me: gồm dân tộc Kháng, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun.

Như vậy, ngữ hệ Nam Á trước có 32 dân tộc, nay còn 28 dân tộc. Còn Nhóm hỗn hợp với 4 dân tộc: Cơ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo sẽ chuyển xuống ghép vào ngữ hệ Thái - Kadai là hợp lý và khoa học nhất. Như thế, ngữ hệ Thái - Kadai sẽ bao gồm 2 nhóm, với 12 dân tộc:

- Nhóm Tày - Thái có:

+ Dân tộc Bố Y

+ Dân tộc Giáy

+ Dân tộc Lào

+ Dân tộc Lự

+ Dân tộc Nùng

+ Dân tộc Tày

+ Dân tộc Thái

+ Dân tộc Sán Chay

- Nhóm Kadai, bao gồm:

+ Dân tộc Cơ Lao

+ Dân tộc La Chí

+ Dân tộc La Ha

+ Pu Péo

 Ngữ hệ Hán - Tạng vẫn giữ nguyên, bao gồm:

- Nhóm tiếng Hán: gồm các dân tộc Hoa, dân tộc Sán Dìu, Sán Chỉ (trong dân tộc Sán Chay)

- Nhóm Tạng - Miến: bao gồm các dân tộc Cống, dân tộc Hà Nhì, dân tộc La Hủ, dân tộc Lô Lô, dân tộc Phù Lá, dân tộc Si La. 

Cư dân thuộc Ngữ hệ Nam Đảo: ở Tây Bắc không có

Thứ hai, đối với dân tộc Thổ là những nhóm cư dân ly khai từ dân tộc Kinh, dân tộc Mường hình thành nên, mặc dù có nét chung với dân tộc Kinh, dân tộc Mường, nhưng có địa bàn cư trú riêng và quan trọng hơn là họ luôn ý thức mình là một dân tộc riêng biệt không liên quan gì đến dân tộc Kinh và dân tộc Mường thì chúng ta nên thừa nhận; còn ở phần dân tộc Tày (thuộc nhóm tiếng Tày - Thái) cần bỏ phần cho rằng dân tộc Tày còn có tên gọi khác là dân tộc Thổ; trong giao tiếp, thậm chí trong học thuật cũng không nên gán hai dân tộc Tày, Nùng ở vùng Việt Bắc là “dân tộc Thổ” với tư cách là “người bản địa”, “thổ công” của vùng này.

Đối với dân tộc Chứt có tên gọi khác là Rục, Arem, Sách; nhóm địa phương còn gọi là Rục, Mày, Sách, Arem, Mã Liềng; tiếng nói thuộc nhóm Việt - Mường (Ngữ hệ Nam Á)…với số lượng rất ít (có khoảng trên 6000 người năm 2013, sinh sống rải rác trên 63 tỉnh thành, nhưng đông nhất là ở Minh Hóa - Quảng Bình) nên có thể quy về cùng nhóm với dân tộc Thổ…

Còn dân tộc Sán Chay gồm có hai dân tộc: Sán Chỉ (dùng tiếng Hán, văn hóa Hán), dân tộc Cao Lan (văn hóa Tày, dùng tiếng Tày…); về mặt ý thức tự giác tộc người cả hai dân tộc này không ai chịu nhận mình là dân tộc Sán Chay, nhưng lại ghép cùng một dân tộc là hết sức bất cập…Dân tộc Sán Chỉ có thể quy về nhóm cư dân Hán; còn dân tộc Cao Lan có thể đưa về nhóm cư dân Tày - Thái. 

Thứ ba, trong quá trình giảng dạy học phần Dân tộc học Đại cương cần phải cập nhật thành tựu nghiên cứu về các dân tộc Việt Nam, nhất là các dân tộc ở Tây Bắc theo công trình “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam” của tập thể tác giả Vi Văn An, Nguyễn Văn Huy…đã công bố năm 2010 [1]; các dân tộc ở Tây Bắc thuộc 3 ngữ hệ: Nam Á, Thái – Kadai, Hán - Tạng…, thậm chí giáo trình Dân tộc học đại cương cần thiết phải được biên soạn lại để hợp lý và khoa học hơn.  

KẾT LUẬN

Có thể nói, về cách phân chia nhóm dân tộc và cách gọi tên các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam về cơ bản là phù hợp; tuy nhiên vẫn còn một số dân tộc và nhóm dân tộc cần được bàn thêm để bảo đảm tính khoa học và hợp lý hơn. Về tiêu chí phân chia, gọi tên các dân tộc bao gồm ba tiêu chí: Ngôn ngữ, Văn hoá, Ý thức tự giác tộc người, nhưng quan trọng nhất là ý thức tự giác tộc người.

Trước những biến đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế xã hội hiện nay, cũng đặt ra nhiều vấn đề về tên gọi các dân tộc và nhóm dân tộc ở Việt Nam nói chung, Tây Bắc nói riêng. Vì thế, bài viết mạnh dạn chỉ ra những thay đổi trong cách phân chia nhóm dân tộc và cách gọi tên các dân tộc ở Tây Bắc (30 dân tộc) mà giáo trình “Dân tộc học đại cương” chưa cập nhật được, cùng hướng giải quyết khoa học, hợp lý để phù hợp với thực tế hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Vi Văn An, Hoàng Bế, Nguyễn Trung Dũng, Lê Huy Đại, Nguyễn Văn Huy…(2010): “Cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  2. Ban dân tộc Khu tự trị Tây Bắc (1972): “Các tộc người ở Tây Bắc Việt Nam”
  3. (1987) “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam” NXB Khoa học xã hội Hà Nội.
  4. “Dân tộc học Đại cương(2005). Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
  5. Đinh Xuân Lâm (1979): “Điện Biên trong lịch sử”. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  6. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (2000): “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam”. NXB Giáo dục, Hà Nội.
  7. Nguyễn Văn Huy (2007): “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam”, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội.
  8. Tài liệu lịch sử địa phương của các dân tộc, như: Kể truyện bản mường của người Thái, Sách Mo của người Lự, Sách Mo của người Mường…
  9. Số liệu của Tổng cục Thống kê năm 2015          

NEED TO ADJUST ETHNIC GROUPS DIVISION AND NAMES OF ETHNIC MINORITY IN NORTHERN VIETNAM IN PUBLIC RESEARCHS

                                                                                                                                  Pham Van Luc Ph.D., Associate Professor, Lo Van Net. Master

                                                                                                                                      Department of History – Geography, TayBac University

Abtract

This article generally mentions ethnic minorities in the north-western Vietnam. Besides, the author focuses on analyzing the inadequacies in the division of ethnic as well as the separation of ethnic groups in some published works; then points out directions for adjustments which are reasonable and scientific; finally clarifies the meaning of above - mentioned adjustments in the social life and in the academic fields.