Đặt vấn đề
Sơn La là tỉnh miền núi, biên giới phía Tây Bắc, diện tích tự nhiên 14.109,83 km2 (đứng thứ ba trong cả nước); dân số trên 1,3 triệu người với 12 dân tộc cùng sinh sống (dân tộc Thái 53,5%; Kinh 16,43%; Mông 15,92%; Mường 6,96%; Xinh Mun 1,97%; Dao 1,67%; Khơ Mú 1,37%; 2,05% các dân tộc thiểu số khác). Sơn La vừa là giao điểm của nhiều nét văn hóa đặc sắc, vừa là một trong các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng chiến lược, quan trọng của vùng Tây Bắc Việt Nam. Với những giá trị văn hóa đặc sắc, văn hóa các dân tộc thiểu số là thành tố quan trọng, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa của vùng đất nơi đây. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với quá trình toàn cầu hóa, sự phát triển của đời sống kinh tế văn hóa xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, văn hóa của nhiều cộng đồng dân tộc ở Sơn La đã và đang có nhiều biến đổi theo những chiều hướng khác nhau. Ngoài những ảnh hưởng tích cực, đã xuất hiện những ảnh hưởng tiêu cực, những mâu thuẫn giữa hội nhập, phát triển kinh tế với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người.
1.Đặc điểm văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La
- Văn hoá các dân tộc trong tỉnh được hình thành từ lâu đời, vừa thống nhất vừa đa dạng.
Văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của lịch sử dân tộc. Trải qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, các giá trị văn hóa đó không ngừng được kết tinh và phát triển. Đó là đức tính nhân ái, đoàn kết, lối sống và ứng xử của các cư dân thuộc nền văn hóa nông nghiệp đặc biệt là tinh thần yêu nước, là ngôn ngữ chung, chữ viết chung... Đây chính là nguyên nhân sâu xa và trực tiếp tạo nên tính thống nhất về văn hóa của cộng đồng các dân tộc sinh sống tại tỉnh.
Tính đa dạng trước hết biểu hiện ở sắc thái văn hóa vùng với những đặc điểm riêng được sáng tạo nên bởi các nhóm cư dân, các thành phần tộc người trên vùng lãnh thổ như ngôn ngữ, trang phục, tín ngưỡng, lễ hội....
Tính đa dạng còn biểu hiện ngay trong từng tộc người, nhất là những tộc người có nhiều nhóm địa phương như nhóm Thái (Thái Đen, Thái Trắng); nhóm Dao (Dao Đỏ, Dao Tiền); nhóm Mông (Mông Đen, Mông Hoa...)góp phần làm nên một bức tranh đa dạng về văn hóa của cá dân tộc tại tỉnh.
- Văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La được hình thành và phát triển từ một nền văn hóa dân gian.
Các kết quả nghiên cứu khoa học về lịch sử, khảo cổ học, dân tộc học, folklore, nhân chủng học, địa chất học, địa danh học...đã cung cấp nhiều bằng chứng cụ thể về thời kì tiền sử tại Sơn La – nơi con người đã có mặt từ rất sớm. Qua nhiều thế kỷ đã tồn tại một giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của cư dân nông nghiệp trồng trọt, của một thiết chế xã hội công xã nông thôn... với một hệ thống các triết lý và quan niệm cùng nhiều hình thức sinh hoạt gắn với chu kỳ đời người, chu kỳ trồng trọt, chu kỳ thời tiết... Đó là những giá trị văn hóa dân gian.Các giá trị văn hóa dân gian là “nguyên liệu” chính cùng với các giá trị văn hóa bác học... đã tạo nên bản sắc văn hóa của các dân tộc tại Sơn La nói riêng và cả nước nói chung.
2. Thực trạng hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La
Trong thời gian qua, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trong tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng.
- Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được bảo tồn, kế thừa và phát huy trong thực tiễn đời sống của đồng bào các dân tộc.
Tính đến nay, tỉnh Sơn La có 89 di tích văn hóa vật thể được phê duyệt đưa vào danh mục, trong đó có 63 di tích được xếp hạng (1 di tích quốc gia đặc biệt, 16 di tích quốc gia, 46 di tích cấp tỉnh). Đến năm 2020, tổng số tư liệu, hiện vật đang lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh là 23.366 tư liệu, hiện vật, trong đó có nhiều tư liệu hiện vật quý như: Sách Thái cổ, sách Dao cổ, trống đồng, trang phục các dân tộc, sản phẩm đan lát... Giai đoạn 2015 - 2022, tỉnh đã triển khai công tác bảo quản, tu bổ, phục hồi được 16 di tích lịch sử cách mạng quốc gia trên địa bàn tỉnh. Tiêu biểu như: Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào tại bản Lao Khô I, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu; Di tích lịch sử Ngã ba Cò Nòi, huyện Mai Sơn; Di tích Đền thờ Đại tướng Võ Nguyên Giáp (huyện Phù Yên)...
Sở Văn hóa thể thao và Du lịch đã tiến hành công tác kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể của 9 dân tộc bao gồm: Thái, Mông, Dao, Mường, Xinh Mun, Khơ Mú, La Ha, Lào, Kháng theo 07 loại hình gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội; Nghề thủ công truyền thống; Lễ hội truyền thống; Tri thức dân gian. Sở đã nghiên cứu, lập hồ sơ khoa học được 13 di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu, trong đó có 12 di sản đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận và đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đó là: Chữ viết cổ dân tộc Thái; Lễ Hết Chá dân tộc Thái (nhóm Thái trắng Mộc Châu); Nghệ thuật Xòe Thái; Lễ cúng dòng họ của người Mông, Lễ Cầu an (Pang A) của người La Ha; Nghi lễ Cấp sắc của người Dao; Nghệ thuật Khèn của người Mông huyện Mộc Châu; Nghi lễ cưới truyền thống của người Dao Tiền; Nghệ thuật tạo hoa văn trên trang phục của người Mông hoa huyện Mộc Châu; Nghi lễ Gội đầu của người Thái Trắng huyện Quỳnh Nhai; Nghi lễ Kin Pang Then của người Thái trắng; Nghi lễ cầu sức khỏe (Mạng ma) của người Xinh Mun dạ, xã Chiềng On, huyện Yên Châu .
Tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, chế tác, thể hiện, truyền dạy và tư liệu hóa 14 loại hình văn hóa truyền thống của các dân tộc. Nhạc cụ của người Mông, Thái, Khơ Mú, Dao; các làn điệu dân ca của người Mông, Thái, Dao, Mường; nghề làm giấy thủ công và nghệ thuật vẽ tranh thờ trên giấy dó của người Dao; Nghi lễ cúng vía trâu của người Thái; Lễ cúng bản của người La Ha, Lễ mừng cơm mới của người Lào; nghề thêu và in hoa văn bằng sáp ong trên vải của người Mông; các nghi lễ trong năm của người Khơ Mú…
Hiện nay, tỉnh có 2 kho sách chữ Thái cổ tại Thư viện tỉnh và Bảo tàng tỉnh với số lượng 1.495 cuốn, được lưu giữ và bảo quản bằng công nghệ thông tin hiện đại. Trong giai đoạn 2015 - 2022, mỗi năm đã xuất bản 3 đầu sách về sưu tầm, dịch, nghiên cứu văn nghệ dân gian với kinh phí bình quân 270 triệu đồng/năm để bảo tồn, giới thiệu, phát huy tinh hoa văn hóa các dân tộc Sơn La.
Nhiều giá trị, di sản văn hóa các dân tộc được nghiên cứu, tôn vinh là di sản văn hóa Quốc gia và nhân loại. Ngày 15/12/2021, UNESCO đã ghi danh “Nghệ thuật xòe Thái” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Tính đến nay, toàn tỉnh có 28 nghệ nhân là người dân tộc thiểu số được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể. Hàng năm, tỉnh còn tổ chức cho các nghệ nhân, đội văn nghệ tham gia trình diễn dân ca, dân vũ, ẩm thực, nghề thủ công truyền thống và các lễ hội, lễ nghi của tỉnh được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia tại Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam và tham dự các liên hoan văn hóa, văn nghệ khu vực, toàn quốc.
Bên cạnh đó, các đội văn nghệ quần chúng cũng được tổ chức và hoạt động ngày càng có hiệu quả, là môi trường tốt để bảo tồn những điệu múa, dân ca, nhạc cụ truyền thống, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân và tổ chức phục vụ khách du lịch.
Nhiều đề tài khoa học, đề án, dự án, phương án bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc được quan tâm, triển khai thực hiện, tiêu biểu như: “Khảo sát sưu tầm lễ hội dân tộc Mông tỉnh Sơn La”; “Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Thái trong quá trình hội nhập quốc tế”; “Bảo tồn văn hóa cư dân vùng tái định cư thủy điện Sơn La”; “Bảo tồn di sản văn hóa vùng lòng hồ thủy điện Sơn La”; …. Qua đó, đánh giá thực trạng của di sản văn hóa các dân tộc và đưa ra những định hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hoá trên địa bàn toàn tỉnh.
Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập, phát triển kinh tế - xã hội, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc tỉnh Sơn La đang có nguy cơ mai một và biến đổi.
- Nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các dân tộc đã, đang bị mai một nhanh chóng (ngôn ngữ, tín ngưỡng, trang phục, ẩm thực, kiến trúc, lễ hội, hôn nhân, tang ma…). Ở Sơn La hiện nay, có thể nhận thấy những giá trị văn hóa đang biến đổi hàng ngày hàng giờ chính là chữ viết, trang phục và kiến trúc nhà ở của nhiều dân tộc.
Biến đổi về chữ viết: Đa số các dân tộc tỉnh Sơn La bảo tồn rất tốt tiếng nói của dân tộc mình như dân tộc: Thái, Mông, Dao, Mường, Lào. Tuy nhiên, do có sự giao lưu nhiều với dân tộc Thái và sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội đã làm cho những nhóm dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La như Khơ Mú, Xinh Mun, Kháng ít sử dụng tiếng nói của dân tộc mình mà chuyển sang sử dụng tiếng Thái trong giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, ở một số vùng thị trấn, thành phố, con em các dân tộc có bố mẹ là công chức nhà nước, hôn nhân khác tộc rất ít biết tiếng nói của dân tộc mình. Đây là một biến đổi tất yếu nhất là trong xu thế hội nhập hiện nay.
Biến đổi về trang phục: Trước đây, người dân tự trồng bông, lanh để dệt vải làm trang phục, làm chăn đắp; các loại vải này thường có các màu sắc chủ đạo là đen, đỏ, vàng, trắng. Ngày nay, người dân đa số không còn trồng bông, lanh để dệt vải mà sử dụng sợi bông công nghiệp được mua ngoài chợ để may trang phục (thường rẻ và tiện hơn so với dệt và may truyền thống); Màu sắc, họa tiết hoa văn trên vải và trên trang phục cũng rực rỡ hơn, đa dạng hơn, phong phú hơn; cách thức may trang phục cũng được cải tiến, chuyển từ may và thêu tay sang may máy. Trước đây, trang phục truyền thống được người dân sử dụng thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày cũng như các dịp lễ, tết. Hiện nay, y phục truyền thống chỉ chủ yếu phổ biến ở vùng sâu vùng xa, hoặc các cụ già là còn giữ được thói quen mặc trang phục cổ truyền hàng ngày.Bộ phận lớn thanh niên đều ưa dùng loại quần áo may sẵn bằng vải dệt công nghiệp như ở miền xuôi, họ chỉ mặc quần áo truyền thống trong các dịp hội hè, lễ tết; nhiều thanh thiếu niên còn ngại mặc trang phục truyền thống với tâm lý tự ti, khác biệt với các nhóm dân tộc khác. Nhiều nhóm dân tộc có nghề thủ công thêu khăn piêu truyền thống như người Thái, người Lào, người Khơ Mú… tuy nhiên, hiện nay chỉ còn người già, phụ nữ đã lập gia đình biết thêu thùa còn lại các em gái, thanh niên gần như không được thêu, dạy… là một trong những nguy cơ làm mai một và biến mất các nghề thủ công truyền thống.
Biến đổi về nhà ở:Qua quá trình sinh sống, do việc chặt phá rừng làm cho nguồn nguyên liệu tự nhiên cạn dần, buộc người dân phải chuyển sang sử dụng các loại nguyên liệu khác để làm nhà. Do đó, các loại hình nhà cổ truyền được chuyển sang nhà xây theo kiến trúc phương Tây; chuyển từ nhà sàn sang nhà đất hoặc nhà xây hoặc nhà nửa sàn nửa đất; chuyển từ cấu trúc sinh hoạt truyền thống sang cấu trúc thông thường… Điều này dẫn đến sự biến đổi về cách thức sinh hoạt và cách bố trí vật dụng trong ngôi nhà truyền thống, ít nhiều dẫn đến xáo trộn và thay đổi mối quan hệ trong các gia đình truyền thống trước đây.
Các giá trị văn hóa mới xâm nhập thiếu định hướng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp chưa được giữ gìn và chưa thật sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa từ bên ngoài.
- Mặt trái của cơ chế thị trường vẫn còn tác động đến quan điểm, thái độ, cũng như việc thực hiện chính sách đầu tư bảo tồn, phát triển văn hóa.
- Việc huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho văn hoá rất hạn chế do chính sách khuyến khích chưa cụ thể và thiết thực.Vai trò của chủ thể, của người dân, của cộng đồng chưa được phát huy và đặt đúng vị trí trong việc lập kế hoạch, xây dựng triển khai, tổ chức quản lý, giám sát các dự án từ cơ sở về văn hoá, ảnh hưởng tới chất lượng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc trong tỉnh.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá còn thiếu, yếu, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực. Người có uy tín và các nghệ nhân người dân tộc thiểu số ngày càng ít dần và chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.
- Chưa có những biện pháp hữu hiệu trong việc dạy và học chữ, học tiếng dân tộc đối với học sinh các dân tộc. Di sản văn hoá các dân tộc đang đứng trước nhiều thách thức, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
3. Một số đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững
Có thể nói, phát triển là một trong những quy luật tất yếu, góp phần nâng cao điều kiện và chất lượng cuộc sống của con người, kiến tạo nên cuộc sống công bằng, văn minh, hiện đại. Quá trình phát triển của một quốc gia, dân tộc được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau : kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, kỹ thuật…Trong đó, phát triển văn hóa được xem là nhiệm vụ song hành cùng phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa như một nguồn vốn, giống như các vốn tài nguyên, vật chất hay tài chính…là động lực cho phát triển và có quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hộ. Bởi thế văn hóa vừa là trụ cột của phát triển bền vững, song cũng là đối tượng cần phát triển bền vững. Trong đó, văn hóa tộc người là thành tố quan trọng trong văn hóa của một quốc gia đa dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc của chính quốc gia đó.
Để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững, nhóm tác giả xin đề xuất một số giải pháp cụ thể sau:
Một là,tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, kết quả Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện được các mục tiêu chiến lược được nêu trong Đề án "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Sơn La giai đoạn 2020 - 2025, định hướng đến năm 2030 đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững".
Hai là, tuyên truyền nâng cao nhận thức về công tác bảo tồn văn hóa, về công tác quản lý văn hóa các dân tộc trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Các cấp ban, bộ, ngành, địa phương và toàn xã hội cần nâng cao nhận thức về văn hóa, từ đó khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; thực sự phải coi “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực hiện các hình thức động viên, khen thưởng, chú trọng biểu dương, nêu gương các tổ chức, cá nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp này.
Ba là, tăng cường nguồn lực đầu tư cho công tác văn hóa
+ Nguồn lực tài chính: Nhà nước và các cơ quan, ban ngành trong tỉnhtiếp tục quan tâm bố trí đủ nguồn lực cho các chương trình, dự án, đề án, nghiên cứu khoa học về bảo tồn văn hóa và nâng cao hiệu quả công tác quản lý văn hóa các dân tộc; có chính sách hỗ trợ, phục dựng các lễ hội truyền thống; các công trình sản phẩm văn hóa; tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có công tạo dựng các công trình, sản phẩm văn hóa; phổ biến, truyền dạy nghệ thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị về văn hóa đối với các dân tộc trong tỉnh; hỗ trợ các mô hình văn hóa đặc sắc, mô hình điểm ở các bản, xã; hỗ trợ việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết của đồng bào các dân tộc.
+ Nguồn lực con người: Chú trọng công tác tuyển dụng công chức, viên chức được đào tạo đúng chuyên môn nghiệp vụ; chú trọng công tác xây dựng quy hoạch và chương trình đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, tập huấn định kỳ, tập huấn hằng năm;“chuẩn hóa” cán bộ, công chức, viên chức theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ.
Bốn là, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh tế-xã hội,xây dựng các đề án phát triển du lịch gắn với gìn giữ, bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc và phát triển kinh tế.
Phải có chiến lược phát triển, phải chú ý đến tính đặc thù, phải có phương án, giải pháp, giải quyết hài hòa giữa “bảo tồn và phát triển”. Khi phát triển du lịch cộng đồng, phát triển sinh kế đối với các dân tộc phải chú trọng tới việc bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa (dệt thổ cẩm, canh tác ruộng bậc thang, trang phục, kiến trúc nhà ở… của các dân tộc), đặc biệt là các di sản theo hướng bảo vệ, tôn trọng ý kiến của cộng đồng, đề cao vai trò của cộng đồng và cộng đồng là chủ thể được hưởng lợi.
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững, nhất là trong thời đại 4.0 cần số hóa những dữ liệu cốt lõi gắn với bản sắc văn hóa đặc thù của các dân tộc. Từ đó, có thể lựa chọn đăng tải các dữ liệu trên các phương tiện truyền thông (như mạng xã hội) và truyền hình, để đông đảo người dân có điều kiện tiếp cận, tương tác, tìm hiểu thuận lợi hơn.
Năm là, đẩy mạnh việc đưa hoạt động bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La vào giảng dạy tại các cấp học cũng như thường xuyên duy trì các hoạt động trải nghiệm không gian văn hóa các dân tộc tỉnh Sơn La tại các cấp học trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Quan tâm đến công tác giáo dục bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc bằng cách đưa nội dung bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc tích hợp vào các môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với thực tế của từng trường học. Cùng với đó là giới thiệu các di sản văn hóa tiêu biểu (làn điệu dân ca, trò chơi dân gian…) cho học sinh trong các hoạt động tập thể, ngoại khóa. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm, tham quan, khảo sát tìm hiểu thực tế tại các địa phương; khai thác kinh nghiệm thực tế, truyền thống văn hóa vốn có của học sinh; tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như sưu tầm ca dao, dân ca các dân tộc thiểu số, tìm hiểu về các loại nhạc cụ dân tộc, học cách sử dụng một số loại nhạc cụ dân tộc, tìm hiểu văn hóa ẩm thực của các dân tộc, tổ chức tết dân tộc, lễ hội, tổ chức các câu lạc bộ (câu lạc bộ múa, câu lạc bộ ca dao dân ca, câu lạc bộ cồng chiêng...), hội thi bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, hội diễn văn nghệ, thi trình diễn trang phục dân tộc, trưng bày bản sắc văn hóa của các dân tộc, tổ chức giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong trường học, thực hành các nghề thủ công truyền thống, liên hoan văn nghệ và trò chơi dân gian, mời nghệ nhân trên địa bàn đến truyền dạy văn hóa cho học sinh...
Sáu là, khuyến khích đồng bào các dân tộc trong tỉnh mặc trang phục truyền thống các dân tộc.
Theo Quyết định 209/QÐ-BVHTTDL của Bộ Văn hóa thể thao và du lịch về việc thực hiện Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Cần tuyên truyền vận động người dân trên địa bàn tỉnh mặc trang phục dân tộc không chỉ trong các ngày lễ lớn mà trong cả cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Khuyến khích học sinh mặc trang phục dân tộc đến trường; có quy định vận động, khuyến khích cán bộ, giáo viên, học sinh mặc trang phục truyền thống dân tộc ít nhất 01 buổi/tuần tại các trường dân tộc nội trú và học sinh, sinh viên, giáo viên, giảng viên là người DTTS tại các trường Tiểu học và THCS, THPT, trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh.
Có thể nói, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc không chỉ là công việc của một cấp, ngành hay của một cá thể, không phải là công việc ngày một, ngày mai mà là công việc chung của cả cộng đồng. Để việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộcđạt hiệu quả, góp phần đảm bảo cho Sơn La phát triển bền vững, mỗi người dân chúng ta chính là một chủ thể góp phần vào việc bảo tồn, phát huy và giới thiệu hình ảnh văn hóa dân tộc mình, con người và mảnh đất Sơn La với bạn bè trong nước và quốc tế, mỗi chúng ta sẽ là những nhân tố tự bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vốn có của dân tộc mình trước khi có sự giúp đỡ từ bên ngoài.Có như vậy, những giá trị văn hóa mới có được sức sống nội sinh và ngày càng phát triển một cách bền vững, tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa bên ngoài để tiếp tục phát triển và hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La (2016), Báo cáo Thực trạng văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La
2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sơn La (2018), Báo cáo Công tác bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tỉnh Sơn La
3. Trần Hữu Sơn (), Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng cao. Nxb Văn hóa Dân tộc
4. Tỉnh ủy Sơn La (2016), Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng Bộ tỉnh về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân tộc giai đoạn 2016 – 2020.
5. Tỉnh ủy Sơn La (2020), Báo cáo Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về "tăng cường sự lãnh đạocủa Đảng đối với công tác dân tộc giai đoạn 2016-2020"
6. Tỉnh ủy Sơn La (2020), Báo cáo Tình hình kinh tế xã hội 5 năm (2016 – 2020), kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2021 – 2025).