Ngày 03/03/2021,trong quá trình khảo sát các di tồn văn hóa vật chất thuộc văn hóa người Thái tại huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La chúng tôi đã phát hiện 02 đồ đựng bằng gốm (người Thái gọi là “Phai”) dùng để nhuộn chàm và đựng nước sinh hoạt tại gia đình ông Hoàng Văn Chiển, 61 tuổi (bản Nặm Ún, xã Chiềng Đông, huyện Yên Châu).

Sau khi trao đổi, chỉnh lý chúng tôi đo được các thông số sau:

- “Phai 1”: Hình tròn miệng loe, đáy và miệng tròn, rìa mép vuốt tròn, xương gốm dày. Thân gốm thô, không trang trí hoa văn. Kích thước: cao 31cm, vòng miệng rộng 103cm, vòng đáy 70cm. “Phai” còn khá lành lặn.

- “Phai 2”: Hình tròn miệng loe, đáy và miệng tròn, rìa mép vuốt tròn, xương gốm dày. Thân gốm thô ráp, không trang trí hoa văn. Kích thước: cao 32cm, vòng  miệng 135cm, vòng đáy 83cm. “Phai” đã bị sứt phần miệng, vết sứt dài 05cm, rộng 02cm còn khá lành lặn.

Dụng cụ nhuộm chàm bằng đất nung

Đất làm “Phai” được lấy ở bản Na Pản (bản duy nhất có đất sét ở huyện Yên Châu dùng để nặn “Phai”). “Phai” dùng để nhuộn chàm, làm đồ đựng, không có nắp. Theo ông Chiển,“Phai” được bố ông nặn từ những năm 1965 – 1966, nặn hoàn toàn bằng tay sau đó phơi khô rồi mới nung. Cách nung khá đặc biệt, nặn xong đem phơi ở chỗ đất trống. nguyên liệu đốt được lấy từ phân trâu khô, khi nung đốt người Thái dùng phân trâu khô cho vào bên trong “Phai” để nung. Nung liên tục trong 02 ngày đêm, trong quá trình nung, thay chất đốt liên tục sao cho lửa không tắt, lửa tắt sẽ làm cho gốm chín không đều.

Do kiều kiện sống, lối sống tự cung tự cấp người Thái ở Yên Châu đã sáng tạo ra các vật dụng phục vụ sinh hoạt trong đó có “Phai” bằng đất nung. Tuy nhiên, qua tìm hiểu cho thấy người Thái ở Yên Châu rất ít gia đình làm “Phai” để sử dụng, chỉ những gia đình có điều kiện sống khó khăn, đông con mới làm, bởi tiền, bạc rất khan hiếm để có thể mua bán các vật dụng bằng chất liệu khác. Còn đối với các hộ dân, gia đình khá giả hơn thường mua hoặc trao đổi lấy các loại đồ đựng có chất liệu khác hoặc trao đổi thóc với người dân mang gốm ở làng nghề gốm Mường Chanh. huyện Mai Sơn đến buôn bán. 

Đây là ví dụ cho thấy tính đặc trưng của người dân dựa vào tự nhiên để chế tạo ra các dụng cụ phục vụ mục đích sinh hoạt của con người. Đồng thời thấy được thói quen, nhu cầu sử dụng đồ đựng của người Thái được làm từ chất liệu gốm, đất nung là một trong những nét đặc trưng nổi bật của văn hoá Thái Sơn La trong tiến trình lịch sử. Khi nghiên cứu các di tồn văn hóa vật chất, các nhà nghiên cứu cho rằng, người Thái ưa thích sử dụng vật liệu từ đất nung, bởi có độ bền cao, phù hợp với điều kiện sống, góp phần làm phong phú thêm vốn văn hóa của cộng đồng người Thái ở Sơn La nói riêng và người Thái ở Tây Bắc nói chung.

Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu quá trình hòa nhập của di dân Thái trắng bản Quỳnh Tiến vào cuộc sống ở điểm tái định cư Lả Sẳng, phường Chiềng An, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La từ bốn góc độ tâm lý, văn hóa, xã hội và kinh tế. Từ đó, chỉ ra chính sách hỗ trợ sau di dân, sự thay đổi của môi trường kinh tế, phương thức sống, sự giao lưu giữa di dân và cư dân địa phương, nhất là sự tự lực tự cường, chủ động hòa nhập với cuộc sống trên quê hương mới… đã giúp di dân Thái trắng bản Quỳnh Tiến hòa nhập thành công vào cuộc sống ở điểm tái định cư.

Người Thái là dân tộc có dân số đông nhất trong số 25 dân tộc anh em ở tỉnh Vân Nam Trung Quốc. Theo Tổng thống kê dân số toàn quốc của Trung Quốc năm 1994, tổng dân số người Thái là 107.32 vạn người, trong đó có 106.2 vạn người cư trú tại tỉnh Vân Nam, chiếm 98.96% tổng số người Thái ở Trung Quốc. Trong đó, người Thái ở lưu vực sông Lan Thương có 41.6 vạn người; lưu vực Nộ Giang có 40.2 vạn người; lưu vực Hồng Hà có 19.8 vạn người; lưu vực Kim Sa có 4.6 vạn người.

Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa ngày nay có một tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sơn La là tỉnh miền núi thuộc vùng văn hóa Tây Bắc (theo cố Giáo sư Trần Quốc Vượng Việt Nam có 6 vùng văn hóa), là nơi sinh sống của 12 dân tộc anh em như: Thái, H'Mông, Tày, Xinh Mun...sống dải rác từ vùng thấp, vùng trung và vùng cao. Mỗi tộc người đều mang trong mình nét văn hóa riêng thể hiện bản sắc, tính đa dạng, phong phú trong văn hóa. Văn hóa tộc người thể hiện ở mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống xã hội từ lễ hội, tập quán tín ngưỡng tới văn hóa ẩm thực đặc biệt là nghề thủ công

Từ “coi” trong tiếng Thái có ý nghĩa giáo dục, triết lý và nhân văn sâu sắc. Theo nghĩa đen: “Coi” có nghĩa là từ từ, cẩn thận, bình tĩnh, thận trọng, khiêm nhường, từ tốn… Theo nghĩa bóng: “Coi” có nghĩa là nhắc nhở, răn dạy văn hóa làm người, văn hóa ứng xử… Từ “coi” trong tiếng Thái được dùng trong mọi lĩnh vực: văn hóa, đời sống sinh hoạt…của dân tộc Thái. Từ “coi” là cả một nét văn hóa ứng xử, nó coi như một lời nhắn nhủ giúp mỗi chúng ta cân nhắc, suy nghĩ trong quan hệ học tập, công tác và sinh hoạt…

 Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu đánh giá hiện trạng phát triển du lịch ở xã Tà Xùa, huyên Bắc Yên, tỉnh Sơn La, trên cơ sở đó tiến hành phân tích ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến kinh tế, văn hóa – xã hội, môi trường và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch bền vững ở xã Tà Xùa. Nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát tham dự, phỏng vấn sâu 7 cán bộ quản lý, 5 hộ kinh doanh, 6 người dân địa phương, 12  khách du lịch và 1 chuyên gia theo cách tiếp cận quan điểm phát triển bền vững và tổng hợp các nguồn tài liệu thứ cấp tại khu vực nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy mặc dù tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, có tính đặc trưng riêng, nhưng du lịch Tà Xùa mới đang ở giai đoạn đầu trong vòng đời sản phẩm, sức ảnh hưởng đến kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương còn hạn chế và hoạt động du lịch còn rất sơ khai. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu nhóm tác giả đã đề xuất ba nhóm giải pháp về kinh tế, văn hóa- xã hội và môi trường với các nhà quản lý hướng tới mục tiêu xây dựng thành công thị trường du lịch và phát triển du lịch xã Tà Xùa theo hướng bền vững, mang lại nguồn lợi ổn định và lâu dài cho địa phương.