Sơn La là một tỉnh miền núi - biên giới nằm ở phía Tây Bắc của nước ta. Phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và tỉnh Lai Châu, phía Đông giáp tỉnh Hòa Bình và tỉnh Phú Thọ, phía Nam giáp tỉnh Thanh Hóa và nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, phía Tây giáp tỉnh Điện Biên. Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 14.174,4km2, đứng thứ ba cả nước sau tỉnh Nghệ An và Gia Lai; đến năm 2017, dân số là 1,2 triệu người với 12 dân tộc anh em cùng sinh sống.

          Người Lào còn có tên gọi khác như: Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn, Phu Thay... gồm hai nhóm địa phương chính là Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ). Về văn hóa, họ gần với người Thái và người Lự hơn là người Lào ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.

          Tiếng Lào thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái.

          Cho đến nay vẫn còn những ý kiến khác nhau về nguồn gốc của người Lào ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng họ là những hậu nhân của các dân tộc nói tiếng Tày - Thái ở vùng tây nam Trung Quốc đã di cư về phía nam trong khoảng thế kỉ VII-VIII. Cũng có ý kiến khác cho rằng, người Tày - Thái cổ có mặt từ rất sớm trên đất nước Việt Nam, đã có sự tiếp xúc giữa ngôn ngữ tiền Việt - Mường với ngôn ngữ Tày cổ trong quá trình hình thành văn hóa Phùng Nguyên. Tuy nhiên có thể thấy, trong số người Lào ở vùng Tây Bắc nước ta nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng, có một bộ phận mới di cư từ Lào sang ở thế kỉ XVII-XVIII. Cũng có ý kiến cho rằng, người Lào từ nước Lào đến Tây Bắc Việt Nam từ thế kỉ XIII, XIV và đến nay vẫn còn những địa danh mang tên Lào như bản Ná Lào (ruộng Lào), bản Ná Láo, bản Lào,... Những bản lâu đời của người Lào ở vùng Tây Bắc nước ta, hiện còn ở các huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La, Điện Biên tỉnh Điện Biên, Tam Đường huyện Than Uyên (Lai Châu).

          Ở Việt Nam, về dân số, Lào là dân tộc đứng ở vị trí thứ 35 trong 54 dân tộc. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, số người Lào ở nước ta là 14.928 người. Riêng tại tỉnh Sơn La, dân số người Lào là 3.380 người. Người Lào phân bố không đồng đều tại các huyện trong tỉnh. Họ thường cư trú tập trung ở một số địa phương dọc theo đường biên giới Việt Nam - Lào, trong đó đông nhất tại huyện Sốp Cộp với 3.177 người và huyện Sông Mã với 143 người.

          Về hoạt động kinh tế: Người Lào sống chủ yếu dựa vào canh tác ruộng nước, đánh bắt cá và dệt vải, dệt thổ cẩm. Người Lào có truyền thống trồng lúa nước từ lâu đời với kĩ thuật canh tác dùng cày, bừa và làm thủy lợi. Ở những nơi có ít ruộng hoặc không có điều kiện để khai phá đất đai thành ruộng nước thì người Lào hoặc canh tác thêm, hoặc chủ yếu sống bằng canh tác nương. Tuy nhiên, canh tác nương không phải là kinh tế truyền thống của người Lào mà học được của các tộc người láng giềng như người Thái, người Khơ Mú và người Xinh Mun. Vì thế kĩ thuật làm nương của họ tương đối thô sơ, các công đoạn làm nương gồm: phát, đốt, chọc trỉa, tra hạt hoặc gieo vãi. Chăn nuôi của người Lào khá phát triển với các giống vật nuôi như trâu, bò, ngựa, lợn, gà, ngan, vịt... được nuôi nhốt trong chuồng trại và được chăn thả khá quy củ. Các gia súc lớn như trâu, bò, ngựa chủ yếu dùng làm sức kéo trong nông nghiệp và chuyên chở hàng hóa. Các loại gia súc, gia cầm khác dùng để cải thiện bữa ăn và dùng trong các dịp lễ tết và để bán. Nghề thủ công tương đối đa dạng và phát triển với các nghề dệt, nghề rèn,nghề làm gốm, làm đồ trang sức bằng bạc và đan lát. Tuy nhiên, do thực hiện cơ chế thị trường, các sản phẩm nghề thủ công của người Lào thường không cạnh tranh được với hàng hóa công nghiệp nên phần lớn các nghề thủ công cuả đồng bào có xu hướng ngày càng bị mai một. Khai thác nguồn lợi tự nhiên vẫn được duy trì và góp phần quan trọng trong đời sống đồng bào.

          Về văn hóa xã hội: trước đây người Lào thường sống tập trung thành các bản riêng với mối quan hệ khép kín. Ngày nay, quan hệ gia đình, họ hàng, cũng như quan hệ thôn bản của người Lào là khá cởi mở, không đóng kín trong gia đình, địa phương, dân tộc. Hôn nhân giữa người Lào với các dân tộc khác  cộng cư trong thôn bản trở nên phổ biến. Gia đình người Lào theo chế độ phụ quyền, chủ nhà là người cha, người chồng có quyền quyết định các công việc liên quan đến đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên mối quan hệ giữa các lứa tuổi và giới tính tương đối bình đẳng, tiếng nói của người phụ nữ và con cái trong gia đình được tôn trọng. Người Lào có các dòng họ như Lường, Lò, Hoàng, Vi... giống người Thái.mỗi họ có kiêng kỵ riêng. Con cái lấy họ theo cha. Phổ biến là hình thức gia đình nhỏ, một vợ một chồng.     

          Về văn hóa vật chất: nhà sàn của người Lào ở Sơn La giống với nhà sàn của người Lào ở nước Lào là kiểu nhà sàn với hai mái dài và hai mái đầu hồi. Trước đây, bố trí trong ngôi nhà sàn của người Lào, trên sàn thì người ở, dưới sàn là nơi nhốt gia súc, gia cầm và có một gian dành riêng để khung cửi và các đồ dùng để kéo sợi, dệt vải. Cũng có gia đình lắp đặt khung dệt ở ngay trên sàn. Ngày nay, dưới gầm sàn được dọn dẹp sạch sẽ, một phần để đồ dùng sản xuất, cối giã gạo và một phần để trẻ con chơi đùa, thậm chí ngủ trưa trong những ngày hè oi bức. Còn chuồng gia súc, gia cầm được làm tách biệt hẳn với ngôi nhà ở.Người Lào có thói quen ăn cơm nếp, uống rượu cần và hút thuốc lá. Trang phục của người Lào ở Sơn La khá giống trang phục của người Thái Đen. Riêng trang phục của phụ nữ Lào so với trang phục của phụ nữ Thái Đen có khác biệt đôi chút. Họ mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thêu nhiều hoa văn sặc sỡ kiểu áo cánh ngắn bó thân với hàng khuy bạc phổ biến ở vùng Sông Mã. Cô gái Lào chưa chồng thường búi tóc ở giữa đỉnh đầu, khi đã có chồng để búi tóc lệch về bên trái. Phụ nữ Lào luôn đội khăn (piêu), đeo nhiều vòng ở cổ tay, xăm hình một loại hoa lá ở mu bàn tay.

          Về văn hóa tinh thần: Người Lào tin vào thuyết vật linh, thờ cúng tổ tiên và chịu ảnh hưởng của đạo Phật. Trong năm người Lào thường tổ chức các lễ hội tiêu biểu như lễ Kin pang; lễ hội xên bản, xên mường; lễ mừng cơm mới... Hôn nhân của người Lào là ngoại hôn dòng họ, thuận chiều, sau hôn nhân vợ về cư trú bên nhà chồng, hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Người Lào cũng có tục ở rể giống các tộc người láng giềng.Trong phong tục ma chay, người chết được làm lễ và chôn cất chu đáo. Riêng người đứng đầu mường, bản hoặc nhà sư sau khi chết mới được thiêu (hỏa táng). Người Lào có kho tàng văn học dân gian và văn hóa nghệ thuật phong phú và độc đáo. Người Lào múa Lăm vông... trong các dịp liên hoan, lễ hội.

Tài liệu: dẫn theo “Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2020), Địa chí Sơn La, quyển 1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật”.

Người Thái ở xã Cà Nàng hiện nay đang phát huy được những giá trị văn hóa do người dân sáng tạo, bảo tồn và lưu truyền trong quá trình tồn tại, sinh sống và phát triển, thể hiện khát vọng, chinh phục thiên nhiên mang bản sắc và đặc trưng văn hoá Thái vùng sông nước. Trong đó nhà lợp mái đá - một loại hình kiến trúc được người dân gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ.

          Trải qua thời gian và quá trình thích ứng với đặc điểm sống ven sông Đá đã dần tạo ra nhà sàn để thoả mãn nhu cầu của đời sống - nhu cầu sử dụng. "Nhà ở là phương tiện cư trú và là tổ hợp không gian sinh hoạt văn hóa của con người. Nhà ở được phát triển cùng với tiến trình của lịch sử xã hội, mức độ kinh tế và văn hóa cùng sự biến đổi về hoàn cảnh địa lý, môi trường sinh sống " [2, tr.157]. Hiện nay, ở bản Pho Pha vẫn còn 80% nhà sàn lợp mái đá, đây là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, "Cũng không ai biết chính xác văn hóa làm nhà sàn lợp đá có từ khi nào, nhưng từ rất lâu rồi người ta vẫn yêu thích dùng loại đá này để lợp nhà vì nó vừa đem lại sự chắc chắn cho ngôi nhà và vừa tạo ra một không gian mát và thân thiện" [1, tr.1]. Nhà sàn lợp mái đá là nhà cột vuông, kê tảng, nhà thường có 2 gian, 2 trái với 5 hàng cột dọc, 4 hàng cột ngang. Nhà sử dụng các nguyên vật liệu tự nhiên để chế tác, tuy chỉ có dây buộc thép 1li dùng để buộc đá lợp khỏi xê dịch với hệ thống mái. Hệ thống cột được liên kết bằng những đòn dầm xuyên qua các lỗ đục, kiểu kiến trúc có vẻ đơn giản nhưng lại rất chắc chắn đủ sức chống mưa nắng và gió bão. Sàn nhà được nâng cao bằng cách kê các tảng đá hoặc tảng làm bằng xi măng để tạo không gian thông thoáng, đón ánh sáng. Có một cầu thang để đi lên sàn nằm ở bên phải, các bậc ở cầu thang là số lẻ. 

          Đặc điểm kiến trúc mái đá

          Kiến trúc bên ngoài: Nhà người Thái ở bản Pho Pha, xã Cà Nàng lựa chọn kiểu mái chóp có nhiều cạnh, kết cấu kiểu đối xứng, đều nhau, có độ dốc cao nên hình thành độ nghiêng lớn nhìn rất bề thế. Mái nhà là mảng chính chiếm 1/2 chiều cao của ngôi nhà, mái được lợp bằng đá tự nhiên tạo khối hình như một tảng đá vững chãi. Chức năng của mái là bảo vệ toàn bộ ngôi nhà và kiến trúc bên trong. Mái được lợp bằng đá đen, cắt vuông vắn, gồm 2 loại: loại vuông 25 x 25cm và loại 30 x 30cm, mỗi viên đá được cắt vát một góc cân đối, sâu vào 7cm, để khi ghép 2 viên lại sẽ khớp với nhau tạo thành đường thẳng, nếu cắt không đều thì khi lợp sẽ lệch, nghiêng và kéo theo cả hàng ngói sẽ nghiêng, chỗ tiếp giáp giữa 2 viên được phủ lên (đè lên) bằng một viên khác tạo thành hình vảy cá. Mỗi viên đá được dùi một lỗ nhỏ để luồn dây thép qua với tác dụng buộc vào litô giúp viên đá liên kết với khung mái. Mái đá nhìn như một khối đá khổng lồ, như sải cánh bao trọn lấy kiến trúc bên trong, đá chính là "tấm lá chắn" vũng chắc bảo vệ gia đình trước mọi tác nhân của môi trường. Có thể nói mái nhà lợp đá là một bộ phận vô cùng quan trọng tạo nên nét độc đáo, vẻ đẹp gắn với môi trường tự nhiên.

          Kiến trúc bên trong: Bên dưới lớp mái là phần đỡ đá lợp, là bộ phận chịu lực chính nâng đỡ toàn bộ hệ thống mái nhà. Phần này còn được gọi là kiến trúc mái, sườn mái hay khung kèo mái. Sườn mái gồm vì kèo, xà gồ, cầu phong và li tô. Các bộ phận liên kết chặt chẽ tạo thành mạng lưới dày đặc bên trong để chống đỡ toàn bộ sức nặng của đá lợp bên ngoài. Hệ thống bên trong được tạo bởi:

          Xà gồ hay còn gọi là đòn tay có đường kính 10 - 12cm, được làm từ loại gỗ quý có khả năng chịu lực tốt. Chức năng chính của xà gồ là tạo sự liên kết giữa các vì kèo, xà gồ được trải đều trên vì kèo, dọc mái.

          Cầu phong là bộ phận cấu thành kiến trúc bên trong mái, được làm bằng gỗ, cầu phong được trải đều dọc theo mái từ đỉnh xuống giọt gianh. Cầu phong dày 3 - 4cm, rộng 8-12cm, mỗi một mái cần khoảng 10 thanh cầu phong. Cầu phong được đặt vuông góc với xà gồ và được cố định bằng đinh sắt.

          Li tô là nơi các viên đá lợp sẽ buộc vào bằng dây thép vuông góc với cầu phong, song song với xà gồ. Tùy kích thước của đá lợp mái mà khoảng cách giữa hai li tô sẽ khác nhau, số lượng li tô phụ thuộc vào chiều rộng của mái. Li tô làm bằng tre già, dày, thẳng ngâm trong ao hoặc sông suối để tránh mối mọt, sau đó chẻ nhỏ vót đều với kích thước là 3cm. Li tô được trải đều, cố định với cầu phong bằng đinh sắt.     Sau cùng là đòn nóc, là bộ phận cao nhất của mái nhà. Đòn làm bằng gỗ, hình tam giác, cạnh bằng quay vào bên trong còn cạnh nhọn tam giác là đỉnh cao nhất của mái. Đòn nóc giống như xương sống của mái, che chở và bảo vệ cho nhà sàn. Kiến trúc bên trong mái khá dầy với nhiều bộ phận khác nhau, nhưng tất cả phải được làm chắc chắn bởi đây là bộ phận gánh toàn bộ đá lợp của mái nhà.

          Ưu nhược điểm của nhà sàn lợp mái đá

Ưu điểm: mái đá có vai trò chống nóng quan trọng, giảm thiểu lượng nhiệt hấp thụ giúp cho những ngôi nhà ở đây rất mát. Vì đá có độ dày, mỏng đều nhau nên nhiệt sẽ hạn chế không toả được xuống phía dưới (bên trong nhà). Ngoài ra, lợp đá cũng giúp mái không bắt lửa khi vào mùa phát nương đốt rẫy trồng hoa màu. Mái dốc thoát nước nhanh, không thấm nước, có độ bền cao, mức độ an toàn tốt, có liên kết giữa các viên đá với nhau hình vẩy cá vì thế mái nhà không bị xê dịch khi gặp gió bão, giông lốc,…

          Nhược điểm: Mái có độ nghiêng lớn dẫn đến việc hao tốn vật liệu khá nhiều khi làm; đá lợp tương đối nặng từ 1kg - 2kg/viên, do đó ảnh hưởng lên kết cấu của hệ thống bên trong. Vì vậy mỗi lần sửa chữa, tháo dỡ hay thay thế rất phức tạp mất nhiều thời gian, phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế, thời tiết.

Nhà sàn lợp đá mang những đặc trưng riêng thể hiện qua quan niệm, nếp sinh hoạt và là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống quý báu, phản ánh nếp sống gia đình cùng các mối quan hệ xã hội. Với những giá trị tích cực về văn hoá tộc người Vì vậy, cần có những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy, phát triển một cách đúng đắn, kịp thời và hiệu quả để người dân có động lực giữ gìn di sản văn hoá độc đáo của cộng đồng trước ảnh hưởng của các trào lưu, sự du nhập của các nền văn hóa mới.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Văn Thành Chương (2021) https://laodong.vn/photo/doc-dao-nhung-khu-pho-nha-san-lop-da-o-dien-bien-969418.ldo. truy cập ngày 31/5/2023

2. Vũ Tam Lang (1999), Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.

Lễ hội "Đông Sửa" được tổ chức rất long trọng, là loại hinh sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng lâu đời của người Thái tại Bản Khá, lễ hội có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân trong xã hội, đã trở thành một nhu cầu, một khát vọng hướng đến cái tốt đẹp của nhân dân.

Theo tiếng Thái  "Đông" nghĩa là khu rừng thiêng, rừng cấm của bản, khu rừng này chỉ để bản dùng trong dịp lễ "Đông Sửa". "Sửa" nghĩa là áo thiêng, theo quan niệm của người Thái ở bản Khá "Áo thiêng" chứa đựng linh hồn của những người đã từng cai quản, quản lý khu rừng thiêng của bản. Hàng năm "Chảu Sửa" (Chủ áo) chọn ngày đẹp nhất của mùa xuân để tổ chức lễ hội "Xên đông sửa" (Cúng chủ áo). Những ngày này, mọi người gác lại hết công việc nhà, nương rẫy để tập trung cho việc chung cả bản. Trước khi thầy cúng làm lễ tại khu rừng thiêng từ sáng sớm người dân trong bản cùng nhau thịt lợn, thịt vịt, thịt gà, hái rau, xôi cơm,… mọi công việc nấu, nướng đều được làm tại khu rừng. Lễ vật được chuẩn bị chu đáo từ chọn gà, vịt, lợn thịt được sắp xếp theo tuần tự: lợn, gà, vịt và được bầy trên lá chuối,… Ngoài ra còn lễ vật của từng gia đình như vải khíp, đôi vòng tay, tiền vàng đều được đặt xung quanh theo tuần tự, người được chọn là đại diện chủ chủ hộ phải ngồi trực xung quanh nơi lễ cúng diễn ra.

Để tiến hành lễ cúng chính ở rừng thiêng còn có một lễ cúng tại gia đình người "Chủ áo" với mong muốn ông bà tổ tiên phù hộ, cho gia đình mạnh khoẻ, mọi điều đều may mắn, sau đó mới diễn ra lễ cúng tại rừng. Trước khi lễ cúng bắt đầu, thầy cúng làm lễ "Cẩn báo" với các vị thần lễ vật đã chuẩn bị xong, mời các vị thần "kiểm tra" lễ vật đã đầy đủ hay chưa, nếu đủ rồi thì buổi lễ chính thức được bắt đầu và được tiến hành nghiêm túc, trang trọng. Lễ cúng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các vị thần có công với bản, họ gửi gắm những ước vọng lớn lao về một cuộc sống bình yên, no ấm. Với ý nghĩa tưởng nhớ về công ơn của người khai sinh ra bản, bảo vệ bản, cảm ơn các vị thần linh đã che chở cho dân làng. Đồng thời cũng là dịp cầu phúc, cầu xin trời đất phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng xanh tốt, một năm mới an khang thịnh vượng.

Sau phần lễ là các hoạt động của phần hội, các trò chơi dân gian cũng được đem ra trình diễn và được người dân cùng khách đến dự hăng hái tham gia như: Tung còn, thi bắt cá, xòe, trống chiêng, thi đan xọt, làm cút piêu, gói xôi,… Đến với lễ hội mọi người được gặp gỡ, vui chơi, giao lưu cùng với người dân trong bản,… Tất cả tạo nên một không khí hội náo nhiệt, vui tươi trên tinh thần đoàn kết và phát triển.

Qua lễ hội giúp con người được trở về cội nguồn của dân tộc, chứa đựng những ý nghĩa tốt đẹp, đạo hiếu với tổ tiên, mang ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Thể hiện sức mạnh cộng đồng, địa phương. Họ có chung một mục tiêu là đoàn kết để vượt qua khó khăn, đây cũng là dịp người dân được giải tỏa, giãi bày phiền muộn lo âu với thần linh và mong được giúp đỡ chở che để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Đồng thời, qua lễ hội mở ra các giá trị văn hoá mới dựa trên nền tảng các giá trị văn hoá truyền thống hướng tới xây dựng sản phẩm du lịch văn hoá, du lịch cảnh quan, trải nghiệm,… đây cũng là hình thức giáo dục thế hệ trẻ bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hoá truyền thống quý báu của cha ông được lan toả và trường tồn.

Chiềng Ngần là một xã thuộc thành phố Sơn La, cách trung tâm thành phố 5km về phía Tây Bắc. Phía Đông và Đông Nam giáp 2 xã: Mường Bú (huyện Mường La), Mường Bằng (huyện Mai Sơn); phía Tây giáp các phường: Quyết Tâm, Quyết Thắng và Chiềng Sinh (thành phố Sơn La); phía Nam giáp xã Chiềng Mung (huyện Mai Sơn); phía Bắc giáp xã Chiềng Xôm, phường Quyết Thắng, phường Chiềng An (thành phố Sơn La). Tổng diện tích tự nhiên của chiềng ngần là 4.584ha, trên địa bàn xã có những nhóm đất chính: feralit đỏ nâu trên đá vôi, độ phì nhiêu khá, chiếm 29,01%; đất feralit mùn vàng đỏ trên đá sét, hàm lượng mùn trung bình,…

Xã có 7 dân tộc cùng sinh sống bao gồm: Thái, Kinh, Mông, Mường, Tày, Hoa, Lào, người Thái chiếm 95,3 % dân số toàn xã, gồm 2 nhóm Thái Đen và Thái Trắng, người Thái định cư tại xã từ lâu đời có các dòng họ lớn như họ Cà (455 hộ), họ Đèo (245 hộ), họ Lù (200 hộ).  Người dân cư trú theo bản, mỗi bản trung bình 20 – 30 nóc nhà, các bản có rừng, đường mòn, đường ranh giới riêng,... Người dân trong xã sớm biết làm nương rẫy, trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, sắn,… và các loại lạc, đỗ. Trong quá trình lao động sản xuất, đồng bào đã tự chế tác các loại cung nỏ, súng kíp, dao, cuốc,… để phục vụ nhu cầu cũng như lao động sản xuất. Ngoài kinh tế nông nghiệp, Chiềng Ngần còn khuyến khích phát huy, phát triển vốn văn hóa truyền thống của cộng đồng, trong đó có có các tri thức dân gian liên quan đến con dao trong lao động. Các tín ngưỡng có liên quan đến con dao đã tồn tại lâu đời trong văn hóa Thái, làm cho bức tranh văn hóa dân gian của cộng đồng có dân số đông nhất ở xã Chiềng Ngần thêm đa dạng, phong phú.

1. Giá trị của dao đối với người Thái ở Chiềng Ngần, thành phố Sơn La

Dao trong lao động, sản xuất: từ lâu, người Thái đã coi dao là công cụ quan trọng bậc nhất trong việc tạo ra các giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa vật chất. Có dao người dân lấy gỗ, tre dựng nhà ở, tạo ra các công cụ và vật dụng cho sinh hoạt hàng ngày, dùng để chế biến thức ăn, làm nương rẫy… Dao có nhiều loại với kích thước khác nhau và công dụng, mục đích sử dụng cũng khác nhau. Có thể chia dao của người Thái thành một số loại cơ bản sau: dao dựa (mịt nhớ), dao nhọn (mịt lem),… và các loại kiếm nhỏ, to dùng trong một số nghi lễ tín ngưỡng. “Dao nổi lên như một loại công cụ vạn năng. Có một con dao tử tế, người ta có thể canh tác trên một đám nương đầy đủ theo đúng nghĩa của nó. Dao thay rìu chặt cây; cạo vỏ cây làm bùi nhùi để làm mồi cho vật cọ sát bật ra lửa, dao tham gia việc dọn nương, chặt cây làm gậy chọc lỗ gieo hạt, thay liềm gặt hái” (Cầm Trọng 2005: 75). Trong lao động sản xuất, người Thái sử dụng dao dựa (loại to) làm những việc quan trọng trong canh tác như phát nương, phát đường đi ra ruộng, chặt các cây gỗ lớn dùng làm cột nhà, xà nhà,… Do tính chất nặng nhọc, vất vả và nguy hiểm của công việc, chỉ những người đàn ông trưởng thành mới được sử dụng loại dao to. Các loại dao có kích thước nhỏ dùng để khai thác các loại cây nhỏ như tre, nứa, dây rừng, dao cỡ nhỏ là công cụ gắn liền với phụ nữ và trẻ em ở lứa tuổi thiếu niên, dùng dao thu hái các loại rau, cây rừng. Dao của người Thái rất sắc, nhọn được sử dụng thường xuyên; mỗi khi sử dụng xong người đàn ông thường tiến hành mài dao ngay bằng các loại đá lấy ở rừng hoặc bờ suối chứ không để lâu, bởi để lâu dao nhanh cùn, lần sử dụng tiếp sẽ không sắc. Trong quá trình sử dụng dao, người sử dụng rất ít khi bị tác động của lưỡi hoặc mũi dao làm bị thương, điều đó cho thấy dao có vị trí cực kỳ quan trọng đối với con người.

Dao trong chế biến ẩm thực: trong văn hóa ẩm thực, dao dùng để mổ, làm thịt, chia nhỏ các tảng/miếng thịt các loại gia súc, gia cầm. Dao dùng để thái, băm, lọc, chặt loại xương, làm nhỏ các loại gia vị để phục vụ việc ăn uống hằng ngày trong gia đình hoặc phục vụ nhu cầu của cộng đồng. Qua thực tế, tác giả chứng kiến cách chế biến các món ăn của người Thái, thì dao có vị trí quan trọng trong chế biến món ăn truyền thống như: nạp trâu, bò, pha chế thịt đặc biệt là thái, băm, chặt,… Ngoài đôi tay khéo léo, còn có sự giúp sức tích cực là con dao để tạo các món ăn mang tính truyền thống được như ý và đảm bảo hương vị đặc trưng của cộng đồng. Sử dụng dao là cả một nghệ thuật giúp người xem “tai nghe, mắt thấy” một cách trọn vẹn nhất, tinh túy nhất giữa các cách chế biến ẩm thực, đồng thời thể hiện tài năng của người đàn ông, bởi người đàn ông là người luôn chế biến những món chính trong mâm cỗ của người Thái. Vì vậy, dao là vật quan trọng trong mọi công việc của người Thái, mỗi công việc dù to hay nhỏ thì công năng sử dụng luôn được phát huy tối đa để phục vụ mục đích của con người. Con dao nói riêng và dụng cụ dùng trong lao dộng, sản xuất nói chung phải được coi như một di sản văn hóa mang tính biểu tượng, đại diện của cộng đồng người trong tiến trình lịch sử đấu tranh chống lại kẻ thù, tạo ra của cải vật chất, góp phần làm phong phú, đa dạng dóng góp vào kho tàng văn hóa của cộng đồng.

  1. Dao trong văn hóa dân gian người Thái ở xã Chiềng Ngần, thành phố Sơn La

Dao trong tang ma: Người Thái có nhiều hình thức tín ngưỡng có liên quan đến con dao - sản phẩm của nghề rèn truyền thống, “Nghề rèn gắn bó mật thiết với đời sống hằng ngày của người dân nơi đây bởi nó tạo ra các công cụ sản xuất và đồ dùng sinh hoạt như: dao, cuốc, thuổng, hái, rìu... Ngoài ra, sản phẩm của nghề rèn còn mang ý nghĩa tâm linh khi được dùng trong việc cúng tế, đuổi tà ma theo phong tục của đồng bào nơi đây” (Tuệ Minh: 1). Theo phong tục của từng bản, từng địa phương, khi nhà nào có đám tang, trưởng bản sẽ tiến hành thông báo với bà con trong bản, để các gia đình biết được thông tin, sau đó mỗi hộ gia đình cử 2 người đến giúp tang lễ. Trong đám tang ai cũng đeo bên hông một con dao, có thể dao nhọn (mịt lem) hoặc dao dựa (mịt nhớ), cũng có thể là chiếc kiếm nhỏ. Đàn ông mang dao để giúp gia chủ việc chặt tre, làm các vật bằng tre, làm nhà mồ, đan lát phục vụ trong tang lễ hoặc các nhóm được phân công làm cỗ để cúng hoặc làm cỗ phục vụ mọi người đến giúp trong tang lễ. Ngoài ra, theo quan niệm mang dao bên mình còn chống được ma tà, người sức khỏe yếu đeo dao sẽ không sợ các hồn ma làm phiền, quấy nhiễu, người đến giúp còn cùng gia chủ tiến hành xác định vị trí đào huyệt mộ rồi dùng dao phát đường đi, phát quang chỗ huyệt mộ, con dao luôn bên hông, mỗi khi làm việc thì mới rút ra khỏi bao.

Đặc biệt trong tang lễ, khi tiến hành đưa người chết ra rừng ma, đi bên cạnh dẫn đường là con rể, có thể là rể cả hoặc rể thứ do người đã khuất lựa chọn làm người dẫn đường, người dẫn đường cũng đeo một con dao bên hông để sử dụng trong công việc cần thiết của mình, ngoài ra còn đeo thêm một con dao nữa của người đã khuất, phải là con dao được người đã khuất sử dụng thường xuyên. Sau khi tiến hành chôn cất xong xuôi thì người con rể được phép mang con dao đeo bên hông của người đã khuất về sử dụng bình thường, coi đó là vật được thừa hưởng từ bố mẹ vợ. Đây là tín ngưỡng trong tang ma của người Thái, được duy trì và tồn tại cho đến ngày nay, một nét đẹp văn hóa tâm linh mang đậm bản sắc tộc người.

Dao (kiếm) của thầy cúng (ông mo, thầy mo): Cúng tế có từ lâu đời, bởi người Thái tin vào thần linh với tín ngưỡng đa thần của đồng bào lấy nông nghiệp làm sinh kế. Thầy mo được xem như người có thể đến thế giới tâm linh chiến đấu với ma quỷ giải cứu hồn vía người đi lạc hoặc bị bắt đi. Để chiến đấu với ma quỷ, thầy mo phải cần đến một cây kiếm, kiếm có thể do thầy truyền lại cũng có thể tự rèn hoặc đặt các hộ rèn có uy tín ở địa phương. Trước khi tiến hành cúng, thầy cúng cầm kiếm khấn để xua đuổi tà ma, bảo vệ mọi người trong lễ cúng, kiếm là vật dùng quan trọng không thể thiếu của người thầy mo vì thế nó được bảo quản rất cẩn thận, kiếm không đem ra sử dụng mà chỉ dùng với mục đích trừ tà ma khi làm lễ. Khi ra khỏi nhà để làm cúng cho một chủ cúng nào đó, thầy cúng thường đặt kiếm lên ban thờ thắp hương khấn xin với thần linh (báo cáo) mong thần linh giúp đỡ để thầy cúng hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi tiến hành lễ cúng về phải đặt kiếm và các đồ lễ lên ban thờ và thắp hương để báo cáo (báo công) đã hoàn thành công việc. Thông thường khi cúng lớn (cúng dê, cúng lợn, cúng trâu), thầy cúng thường cúng con vật sống, thầy dùng kiếm chém tượng trưng vào con vật rồi mới giao con vật cho người nhà chủ cúng mổ để tiến hành các bước tiếp theo trong lễ cúng. Những ông mo, thầy mo giỏi thường có nhiều con nuôi và học trò của mình khắp các bản, họ là những người được mo quý mến hoặc mang ơn, được mo chữa bệnh, giúp giả trừ tà ma. Vì mến mộ, nhiều người muốn theo nghề mo nên xin các mo cho đi theo để học nghề, mỗi thầy mo chỉ chọn lấy một hai người trong số đông đảo những con nuôi, học trò của mình để truyền lại những bí quyết hành lễ. Nếu thầy mo già yếu và chết đi, gia đình thường giữ lại cây kiếm đã từng hành lễ như một báu vật thiêng liêng.

Dùng dao làm đơn vị đo lường truyền thống: Trước đây điều kiện giao thông đi lại còn nghèo nàn, đường sá rậm rạp, các thiết bị đo lường rất hiếm, người Thái thường dùng khái niệm “con dao quăng” để chỉ và xác định ước lượng khoảng cách xa gần. Có câu quang mịt là ném dao, quang mịt họt có nghĩa là ước lượng khoảng cách gần từ nơi đang đứng đến vị trí nào đó bằng cách ném (quăng) con dao về hướng đó. Tuy nhiên các nghiên cứu cho rằng khái niệm “dao quăng” cũng không hẳn thế, họ cho rằng người Thái sống dựa vào môi trường tự nhiên, dựa vào rừng để sinh sống, rừng cung cấp nguyên vật liệu, cung cấp thức ăn,… hình ảnh người đàn ông đi rừng đeo bao dao ở thắt lưng là hình ảnh không hiếm thấy ở người Thái. Vì con dao nặng đến trên dưới 1kg nên khi đeo nó bên hông lâu sẽ thấy mỏi, họ sẽ quăng con dao đeo từ bên hông này sang bên hông kia, hành động đó diễn ra liên tục trong lúc di chuyển. Khoảng thời gian giữa hai lần chuyển như thế được tính là một con dao quăng, khoảng cách được đo bằng một con “dao quăng” tùy vào sức khỏe của từng người, tùy thuộc vào thời gian di chuyển. Lúc mới đi thì một quăng dao sẽ xa hơn so với thời gian di chuyển nhiều hơn khi đã đi mệt; người lớn, người khỏe, người đi rừng thường xuyên thì một “dao quăng” cũng xa hơn so với người ít đi hoặc phụ nữ, trẻ em. Vì vậy, “dao quăng” là phương thức tính dân gian mang tính ước lượng, không chính xác, là đơn vị đo với từng cá nhân, chứ không mang tính bao quát cho tất cả mọi người.

Dao dùng trừ ma tà: Dao còn dùng khi nhà có trẻ sơ sinh để trừ tà ma, khi nhà có trẻ mới sinh, con dao được chủ nhà cài dưới tấm niếp (phên đan) để các ma không về quấy rầy trẻ nhỏ và người mẹ. Ngoài ra, theo ông Cà Văn Chăm (50 tuổi, thầy giáo) ở Chiềng Ngần cho biết: khi lên nhà mới, gia chủ tiến hành lễ “xên hươn”; gia chủ đeo dao ở hông ngồi cùng thầy cúng ở chân cầu thang, sau khi cúng xong, dao và một số đồ vật được mang lên nhà để ở nơi thờ cúng của gia đình, các đồ vật này không được bỏ xuống mà chỉ khi có việc lớn như tang ma, lễ tết mới đem xuống làm sạch rồi lại treo lên, với quan niệm các đồ vật trong đó có dao sẽ giúp chủ nhà xua đuổi được những điều xấu, mang lại những điều tốt lành cho các thành viên trong gia đình.

  1. Bảo tồn và phát huy giá trị của dao trong văn hóa truyền thống các tộc người ở Sơn La

Con dao đã góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp, trong các tín ngưỡng dân gian của người Thái. Dao không chỉ đóng góp vào việc lao động sản xuất, mà còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc giữa con người với công cụ tạo ra của cải, con người dựa vào tín ngưỡng để tin rằng có đấng thần linh phù hộ, che trở, tránh được những điều xấu luôn mang đến những điều tốt đẹp. Qua các tín ngưỡng văn hóa dân gian liên quan đến con dao cho thấy văn hóa Thái chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc, các tín ngưỡng, bài khấn, tri thức có dịp được ôn lại để trao truyền cho thế hệ con cháu mai sau, nối tiếp vốn văn hóa tốt đẹp của cộng đồng.

Gần đây, ngày 18/11/2019, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 về việc phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, trong đó, mục tiêu tổng quát “giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu”. Ngày nay, đời sống của cộng đồng ngày càng phát triển, ấm no, hạnh phúc đời sống văn hóa tinh thần được thể hiện qua các thực hành văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của người dân. Qua đó thấy được cơ hội để văn hóa của cộng đồng người phát huy cùng với sự phát triển chung của toàn tỉnh Sơn La.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, các thiết bị thông tin ngày càng hiện đại đã và đang ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa bản địa; cùng với những thay đổi về nhận thức, về kinh tế đã kéo theo sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ giữa các tộc người với nhau. Đặc biệt, xu hướng đổi mới về đời sống sinh hoạt, nhiều giá trị văn hoá truyền thống bị biến đổi, một số bản trong thành phố Sơn La không còn giữ được bản sắc, những nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng so với người Kinh, bởi văn hóa vật chất đã che lấp, làm nhòa văn hoá Thái. Nhiều tập quán sinh hoạt đã thay đổi, không gian văn hóa truyền thống dần thu hẹp, thậm chí đã không còn được duy trì, thế hệ trẻ không còn mặn mà nhiều với lối sinh hoạt văn hóa truyền thống,…Vấn đề đặt ra là cần bảo tồn, chọn lọc và phát huy kịp thời giá trị các di sản văn hoá nói chung và tín ngưỡng dân gian về sử dụng công cụ lao động, trong đó có con dao là vô cùng quan trọng. Các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng cần có kế hoạch khuyến khích sử dụng vốn văn hóa truyền thống, như trong tang lễ hoặc các tín ngưỡng liên quan đến dao cần được sử dụng và thực hành đầy đủ, đó là những nét văn hóa truyền thống đã đang và cần được quan tâm, bảo tồn.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cầm Trọng (2005), “Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam” Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
  2. Chu Quang Trứ (2013), “Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật”, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội
  3. Tuệ Minh (2020), Những nghề thủ công truyền thống ở Sơn La" https://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Du-lich/963855/nhung-nghe-thu-cong-truyen-thong-o-son-la (truy cập ngày 9/6/2021)

Tục lệ cưới xin của người Khơ Mú trải qua nhiều bước với nhiều nghi thức như: tìm hiểu, dạm ngõ (Prkhát cămbrạ), ăn hỏi (giomanh căm brạ), xin ở rể (Manh veech gút cămbrạ), tiễn rể sang nhà vợ (Srông veech gút cămbrạ), lễ hợp hôn (Pưn đệ), lễ cưới (căm brạ) và lễ lại mặt (hấp êm). Trai gái Khơ Mú đến tuổi cập kê được quyền làm quen và lựa chọn người bạn đời. Việc tìm hiểu thường qua các dịp lễ tết, cưới hỏi, những tuần trăng sáng hay qua lao động sản xuất. Để đi đến hôn nhân, người Khơ Mú có tục “do lạ con lưm” gần giống như tục chọc sàn của người Thái.

Đến tuổi 15 trở đi, con trai thường đến nhà con gái để tâm sự, tìm hiểu. Nếu chàng trai ưng ý một cô gái nào đó thì tối đến đem theo đàn nhị tới gầm sàn nhà của cô gái – nơi cô vẫn ngủ để đánh đàn gọi mời cô gái ra ngoài tâm sự. Nghe tiếng đàn nhị, cô gái biết có người đến rủ mình ra ngoài hiên tâm sự, cô mở cửa và cầm ghế ra ngoài hiên trò chuyện với chàng trai đến tận đêm khuya.

Trai gái dù đã yêu nhau từ trước hay do cha mẹ sắp đặt trước đều phải trải qua các bước nghi lễ sau:

Lễ ăn hỏi là bước đầu tiên của chu trình hôn lễ mà tất cả mọi người đều phải trải qua. Trước khi ăn hỏi, có một lễ gọi là thăm (hỏi bố mẹ cô gái) để xem ý kiến của họ nhà gái về tình cảm của các bạn trẻ. Sau lễ này, sẽ tiến hành trao đổi ý kiến giữa hai gia đình về việc thống nhất cho đôi trai gái đi đến hôn nhân. Bước thứ ba là thông báo cho họ hàng hai bên về quyết định tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ.

Thành phần trong lễ đi hỏi gồm có: ông mối (lam) và bố (hoặc mẹ) chàng trai, cùng với một số người anh em họ hàng chàng trai. Ở Bản Thàn, dẫn đầu đoàn đi hỏi là ông mối, cùng đi có 2 thanh niên nam và 2 thanh nữ trong họ để mang các đồ ăn hỏi sang nhà gái.

Lễ vật trong lễ ăn hỏi gồm có: Trầu cau, 4 lít rượu, 2kg gạo, 1 đôi gà. Ông mối (lam) đặt vấn đề và mục đích chuyến đi với cha mẹ cô gái, truyền đạt ý nguyện của nhà trai muốn cưới con gái họ về làm dâu. Sau khi nhà trai ngỏ lời, cha mẹ cô gái hỏi ý kiến con gái xem cô có ưng thuận thì cha mẹ cô gái nhận lời gả con cho chàng trai. Nhà gái làm một mâm cơm bằng những lễ vật nhà trai đưa sang để làm lễ đính ước giữa hai gia đình (phươm ma rọ manh - bữa cơm ăn hỏi). Lễ vật trong lẽ ăn hỏi sẽ được dùng hết trong bữa cơm đính ước giữa 2 gia đình. Trong bữa cơm thân mật, hai họ cũng bàn đến đến các lễ vật thách cưới và dẫn cưới trong tương lai.

Sau lễ ăn hỏi 1 tháng, nhà trai tìm ngày tốt tiến hành làm lễ cưới (pưn đệ klệ căm brạ). Trong lễ cưới, nhà gái, yêu cầu nhà trai phải nộp các lễ vật như đã thỏa thuận trong khi ăn hỏi, tùy thuộc vào điều kiện của từng gia đình, việc thách cưới chỉ còn mnag tính hình thức. Trong lễ cưới của người Khơ Mú ở Bản Thàn, nhà trai phải có 8 đồng bạc trắng để làm đồ thách cưới sang nhà gái cùng với các lễ cật khác như: Lợn 1 con từ 50kg trở lên (xường); gạo 30kg (ở rừng cộ); rượu 60 lít (buych); gà 4 con (hơia); nếu dùng tiền giấy thì phải nộp 250.000đ (cơmur chia); chăn, đệm 2 bộ (đrôc hđăm); vòng cổ 1 cái (xưng klôi); vòng tay 1 đôi (sư ngạch); hoa tai 1 đôi (kân sal); trâm cài đầu 1 cái (xưng gôm); khăn quấn tóc 1 đôi (glự lộp); thắt lưng 1 chiếc (sư eo); váy 1 cái (khôn); áo 1 chiếc (tẹp). Những lễ vật nộp cho nhà gái gọi là “khlương do pân đệ klệ cân brạ”.Đến ngày cưới đã chọn, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái. Nhà gái cử đại diện nhận lễ và kiểm lại từng khoản cụ thể (reng bưng rịt khoong). Đồ vật nhỏ thì họ đếm, lợn và gà thì đem cân lại để nắm rõ từng khoản mà nhà trai đem tới. Họ phải làm như vậy để phòng khi ly dị thì căn cứ vào đó bắt bên chủ động ly hôn bồi thường. Tất nhiên, nếu nhà gái chủ động bỏ thì nhà gái phải bồi thường, còn nhà trai bỏ thì không được đòi bồi thường. Khi bàn giao lễ vật cho nhà gái có sự chứng kiến của trưởng bản và hai họ phải hứa cam kết với nhau. Sau đó, nhà trai có trách nhiệm giết thịt các con vật vừa giao cho nhà gái. Lễ cúng tổ tiên được tiến hành tại gian thờ tổ tiên (hoong hrôi gang). Đó là gian đầu hồi ở phía cầu thang khách. Bình thường khi không cúng, bàn thờ (hrôi gang) là một tấm phên đan rộng 50cm x 50cm được gác trên gác gian thờ. Khi cúng, thì người ta lấy hrôi gang xuống đặt trên sàn ngay ở chính giữa gian thờ. Họ bầy các thứ đồ cúng lên trên tấm phên rồi tất cả thành viên gia đình nhà gái cùng với con rể vào ngồi xung quanh bàn thờ. Chủ gia đình là người chủ trì lễ cúng. Nếu cha chết thì người con trai cả thay cha làm chủ gia đình. Chủ nhà khấn gọi linh hồn tổ tiên về dự lễ cưới, thông báo cho ma tổ tiên biết từ nay gia đình có thêm thành viên mới là rể của gia đình, xin tổ tiên hãy phù hộ cho con rể khỏe mạnh. Khấn xong, chủ nhà dùng cơm nếp vẽ lên tóc chàng rể và lần lượt đến tóc các thành viên khác. Sau đó, dùng máu gà bôi lên đầu gối chàng rể và mọi người xung quanh bàn thờ. Kết thúc lễ cúng, những người ngồi quanh mâm thờ ăn một chút làm phép rồi bê mâm ra ngoài nhà cho nhà trai thái thịt bầy ra các mâm để mời dân bản và họ hàng hai bên cùng ăn uống chung. Tiệc cưới kéo dài cả ngày.

Trong đám cưới, nhà trai sẽ phải chịu toàn bộ chi phí lễ cưới tổ chức tại hai bên gia đình.

Người Khơ Mú cũng có tục ở rể như người Thái. Sau khi cưới xong, chàng rể phảiở lại nhà vợ sinh sống và làm bổn phận người rể (rặt khươi). Nhà gái chuẩn bị một số tặng phẩm tặng lại cho nhà trai, gọi là “khrương vệc hợp”. Mỗi người trong gia đình nhà trai được tặng một cái khăn piêu (hrơ vệc) một cái khăn trắng thêu hai đầu (khăn), một bộ quần áo nhuộm chàm (tẹp tưng kha vang) cho bố chồng. Số tặng phẩm này nhà gái tặng cho nhà trai sau khi cưới 1-2 tháng.

Trước đây, hạn ở rể thường từ 1đến 3 năm. Nhiều người vì thời gian ở rể quá lâu nên khi trở về nhà cha mẹ đẻ đã có con 11-12 tuổi.

Khi hết hạn ở rể, bố mẹ vợ phải cho con rể mọi thứ đủ xây dựng một gia đình nhỏ. Chủ yếu là các thứ như: Giống lương thực, lợn giống, chăn đệm, trâu, bò nếu bố mẹ vợ có cũng cho. Nếu nhà vợ quá nghèo, ít nhất rể cũng được cái ninh, đồ phát nương và một đôi vòng.

Lễ Pưn đệ (lễ hợp hôn) thường được tổ chức sau lễ tiễn ở rể từ một đến hai tháng. Lễ vật nhà trai mang sang nhà gái gồm: 1 con lợn từ 20 kg đến 30 kg; 1 con gà trống (để xem chân); rượu từ 10 đến 20 lít; gạo từ 10 đến 20 kg và đầy đủ gia vị thực phẩm cần thiết. Ngoài ra, còn kèm theo ít tiền mặt. Số tiền mặt và lễ vật kể trên sẽ được trừ trong lễ cưới chính thức. Đặc biệt, trong lễ pưn đệ, nhà trai còn mang trầu cau (theo yêu cầu của nhà gái), một bộ chăn, gối, đệm thứ gì cũng có đôi và những vật kỷ niệm cho con dâu (nếu nhà trai có điều kiện) ví dụ: 1 chiếc váy; 1 chiếc áo; 1 chiếc thắt lưng; 1 khăn piêu, vòng cổ, vòng tay...

          Trong lễ này, ngoài họ hàng hai bên còn Tạo bản (Khun cung) đến dự và là người làm lễ kết hôn cho đôi trẻ. Sau lễ này, đôi vợ chồng trẻ mới được phép ngủ với nhau và được quyền sinh con đẻ cái.

Lễ cưới chính thức (Cươi cơmun) được tổ chức sau khi chàng trai đã đã hết hạn ở rể (người Khơ-mú thường tổ chức lễ cưới chính thức vào tháng Mười cho đến ngày 25 tháng Chạp). Trước khi tổ chức lễ cưới chính thức, nhà trai phải cử người mang lễ vật gồm: 1 con gà; 2 chai rượu, gạo sang nhà gái để xin dâu. Sau đó chọn được ngày lành, tháng tốt, nhà trai mang toàn bộ số lượng lễ vật (như hai bên thống nhất) gồm: 1 con lợn 60kg, rượu 100 lít, gà 10 con, gạo 50kg, muối 1kg, vỏ sò đựng trong hộp (úp) gọi là tarader; 1 chiếc gươm, 1 cây giáo… sang nộp cho nhà gái, tổ chức lễ cưới chính thức.Những lễ vật này gọi là “đương cư mun vệc đư gang” (lễ vật đón dâu về nhà). Thành phần đi đón dâu gồm có đại diện cha mẹ chàng trai (chú, bác, cô, cậu), anh em của chàng trai (2 nam, 2 nữ); khoảng 6-8 người.

Lễ cưới chính thức(rước con dâu, cháu) về nhà, cha mẹ chàng trai phải đem một lễ nữa đến nhà gái, gồm các lễ vật như sau: Nhà gái khi nhận các lễ vật này cũng đem cân đo lại để ghi nhớ, sau đó nhà trai giết thịt lợn, gà, chế biến thức ăn để cúng xin phép ma của nhà gái cho phép chàng rể và con gái xuất khỏi họ. Cách làm trong lễ cúng này cũng như trong lễ cúng khi cưới, có khác là khi cưới thì xin phép nhập ma cho chú rể, còn lễ cúng đưa dâu là xin phép tách linh hồn con rể và con gái khỏi ma nhà để trở về sống ở ma nhà trai. Sau lễ cúng, hai họ và dân làng cùng dự bữa tiệc chia tay.

Trong lễ cưới chính thức của người Khơ Mú, có khá nhiều nghi thức diễn ra như:Cúng rượu cần (Bụi cờ đoong) trình báo ma nhà, đặt trầu (Nay plỵ  blu),mở hộp úp(gieng tarađer) do ông cậu bên nhà gái chủ trì để kiểm tra lễ vật do nhà trai mang sang; tạ ơn cha mẹ(Sù dầm bụ),của hồi môn (Kha mông căn đrường con đê),hát xin dâu (Tơm kro cmun), nộp cô dâu (Nộp cmun), tạ ơn ông mối;lễ lại mặt (Hấp êm) diễn ra sau lễ cưới 3 ngày.

Nhà trai khi đón dâu về cũng phải giết một con lợn 60kg, 60 lít rượu, 30kg gạo, 6-7 con gà. Khi các con vật trên đã được giết thịt, chế biến, nhà trai sắp lên bàn thờ cúng trình tổ tiên nhà trai xin phép nhập hộ cho cô dâu. Cách làm cũng như bên nhà gái. Các thành viên trong gia đình cùng cô dâu ngồi quanh mâm cúng tổ tiên ở gian cúng (hoong hrôi gang). Chủ nhà lấy xôi trộn với trứng vê lần lượt vào tóc cô dâu và tóc của mọi thành viên trong gia đình, sau đó lấy máu gà lần lượt bôi vào đầu gối cô dâu và các thành viên gia đình. Ý nghĩa của việc làm trên là xin phép ma nhà chồng nhận hồn cô dâu về sum họp với gia đình và phù hộ cho đôi vợ chồng mới mạnh khỏe, làm ăn phát đạt.

Khi chủ nhà cúng xong, mỗi người ăn một chút ở mâm cúng trên bàn thờ, sau đó họ đưa ra ngoài mời dân làng và hai họ cùng ăn uống.

Trong ngày đưa dâu về nhà chồng, nhà gái cũng cử một đoàn gồm bác, chú, cô, cậu, anh em cô dâu đưa tiễn đôi vợ chồng sang tận nhà trai và cũng tham dự mâm cơm đón dâu của nhà trai.

Trường hợp người góa tái giá thì có sự khác nhau đối với đám cưới thông thường. Đối với gái góa đi bước nữa thì đám cưới giản đơn hơn, chỉ cần làm lễ đám cưới nhỏ như “teng gang” rồi đón dâu về nhà chồng. Các nghi lễ ở nhà trai thì vẫn thực hiện như đám cưới bình thường. Nếu đàn ông góa mà đi lấy gái tân phải làm đầy đủ nghi lễ như đám cưới bình thường vì người Khơ Mú quan niệm là “xương âm, đa phau yia ân đạ tồn” (nghĩa là lợn chưa mổ, gà chưa luộc), nên nhà trai phải đáp ứng mọi yêu cầu của nhà gái. Tức là đám cưới phải được tiến hành theo đúng luật tục của người Khơ Mú.

Nếu vợ chồng sống với nhau không còn tình cảm, mâu thuận gay gắt khiến không thể tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân mà hau vợ chồng cùng thuận tình ly hôn thì cộng đồng, luật tục cho phép. Tài sản gia đình và con cái được chia đều cho hai người, chồng nuôi con trai còn vợ nuôi con gái. Trong trường hợp một người muốn ly hôn, người kia không chấp thuận mà dẫn đến chia tay thì người khởi xướng ly hôn chỉ được 1/3 tài sản cũng như con cái.

Trong quan hệ gia đình con dâu phải thức khuya dậy sớm hơn các thành viên khác, phải chuẩn bị giường chiếu cho cả nhà ngủ, sáng phải thức dậy sớm lo cơm nước cho cả nhà, chăm sóc đàn gia súc, gia cầm. Thường nàng dâu không ngồi ăn cùng mâm với bố chồng. cô dâu cũng không được tự tiện vào buồng của bố mẹ chồng, đặc biệt là ngồi lên giường của bố mẹ chồng, chỉ khi bố mẹ chồng chết, vợ chồng người con cả mới được chuyển sang giường của bố mẹ đẻ ở nhưng phải thưng lại vách buồng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ban dân tộc Tây Bắc (1954), Báo cáo về tình hình người Xá Cẩu, Tài liệu đánh máy phòng lưu trữ khu tự trị Tây Bắc.
  2. Trần Tất Chủng (2005), Văn hóa vật chất người Khơ Mú ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
  3. Khổng Diễn (1999), Dân tộc Khơ Mú ở Việt Nam, NXB Văn hóa văn hóa dân tộc, Hà Nội.
  4. Tạ Quang Động (2021), Nhạc cụ đao của người Khơ Mú, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  5. Trần Văn Hà (1999), Tìm hiểu về tri thức địa phương của người Khơ Mú ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện – Viện Dân tộc học, Hà Nội.
  6. Đặng Minh Ngọc (2000), Khảo sát về tình hình kinh tế của người Khơ Mú ở Bản Thàn, xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, Viện Dân tộc học.
  7. Nguyễn Duy Thiệu (1996), Cấu trúc tộc người ở Lào, Nxb KHXH.
  8. Vương Hoàng Tuyên (1963), Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Giáo dục.
  9. Đặng Nghiêm Vạn (1965), Số liệu về sự thiên di của các bộ lạc Thái vào Tây Bắc Việt Nam, NCLS số 78 -9/1965.
  10. Đặng Nghiêm Vạn (1972), Những nhóm dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội.
  11. Lịch sử đảng bộ huyện Yên Châu (2018), Nxb Lý luận Chính trị

Lễ cưới là một nghi lễ quan trọng trong chu kỳ đời người, thể hiện bản sắc văn hóa tộc người, vai trò của gia đình, dòng họ, cộng đồng trong nghi lễ. Lễ cưới có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn giống nòi, nghi lễ, gia đình truyền thống. Đồng thời hôn nhân và đám cưới của người Dao Tiền còn bảo tồn những giá trị văn hóa riêng của tộc người này.

Thứ nhất, đám cưới của người Dao Tiền bảo tồn các nghi lễ văn hóa truyền thống. Người Dao Tiền rất coi trọng việc xây dựng, củng cố gia đình truyền thống, vì vậy, việc dựng vợ, gả chồng được coi là khâu mở đầu của sự hình thành gia đình, được thực hiện rất thận trọng và trang nghiêm cũng như vẫn được giữ gìn đậm nét trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc này. Trong lễ cưới, các phong tục và lễ nghi từ việc đi xin tuổi cô dâu, đưa tuổi cô dâu, chú rể nhờ thầy cúng xem sách lục hợp, đến nghi lễ ăn hỏi, báo cáo tổ tiên xin được tổ chức đám cưới, “ngủ mơ”, xin dâu, đón dâu, cắt khẩu và nhập khẩu cho cô dâu đều được thực hiện đầy đủ, theo đúng trình tự, có đủ các loại lễ vật kèm theo, các bài cúng, bài răn dạy nghĩa vụ làm dâu, rể, làm cha, làm mẹ….Đặc biệt, trong Lễ cưới, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái không thể thiếu được là lễ tơ hồng. Lễ tơ hồng tuy đơn giản, được những người đàn ông cao tuổi, có uy tín trong dòng họ dùng giấy bản gói muối và gừng, buộc bằng chỉ tơ hồng, kèm thêm những đồng tiền bạc (theo sự thách cưới của nhà gái) nhưng mang ý nghĩa sâu sắc cầu mong cho đôi trẻ đã được se duyên trời, sống với nhau mặn nồng, đầu bạc răng long.

          Thứ hai, Lễ cưới của người Dao Tiền bảo tồn kho tàng văn hóa,giáo dục đạo đức con cái, vợ chồng. Hôn nhân và gia đình, dòng họ luôn gắn bó mật thiết, chiếm vị trí quan trọng trong kho tàng văn hóa dân tộc Dao. Để đảm bảo sự bền vững của gia đình, sự trường tồn và phát triển của dòng họ, nhân dân và những người giỏi sáng tác thơ ca, tục ngữ, sách học, châm ngôn không chỉ răn dạy thanh niên nam, nữ mà còn cảnh báo khá nghiêm khắc về nghĩa vụ của các bậc cha mẹ. Trong đám cưới của người Dao Tiền không có các tiết mục hát, múa. Tuy nhiên luân thường, đạo lý được răn dạy rất kỹ lưỡng thông qua các bài cúng, lời dặn dò của bố mẹ hai bên đối với cô dâu, chú rể để thực hiện tốt vai trò của cuộc sống vợ chồng, bổn phần của những người làm con:“Mẹ tu công quả con gái tốt, cha ân đức dày con trai làm quan”; “Dành tiền con cháu; tính toán không minh tại cha mẹ”;“Nhà có con trưởng, nước có đạo thần; đạo thần không công quốc lễ loạn; con trưởng không giỏi nhà túng nghèo”;“Nhà giàu nhờ con trưởng; chính pháp nhờ đạo thần”; Quan niệm hôn nhân chỉ 1 vợ, 1 chồng: “ngựa chỉ phối một yên, nỏ chỉ phối 1 tên”

Coi trọng chế độ phụ quyền, nhưng không xơ cứng, vẫn đánh giá đúng công lao của nhà gái, họ ngoại, bình đẳng trong quan hệ vợ chồng “Vợ theo chồng, chồng theo vợ”. Răn dạy con dâu, mẹ chồng: cô dâu đã là gái có chồng thì không được tơ tưởng đến người tình cũ; ngay phút đầu tiên bước ra khỏi nhà theo đoàn đưa dâu sang nhà chồng đã phải nhìn thẳng, không được quay đầu, nghiêng ngó…phải đối xử khéo với em cô, mẹ chồng và khuyên mẹ chồng phải gần gũi với con dâu trong buổi đầu bỡ ngỡ, không đối xử hà khắc với con dâu dễ dẫn đến hôn nhân của con cái đổ vỡ.

Thứ ba, đám cưới của người Dao Tiền bảo tồn các trang phục truyền thống.Trong lễ cưới, trang phục truyền thống là một thành tố quan trọng, mặc dù hiện nay ngày thường họ ít mặc nhưng cả đàn ông lẫn phụ nữ đều có ít nhất một bộ để mặc vào những ngày lễ, đặc biệt là lễ cưới. Ngoài việc chuẩn bị cho cô dâu, chú rể bộ trang phục truyền thống thì những người phụ nữ trong họ đều mang trang phục đến để mặc cho cô dâu thể hiện sự quan tâm che chở, chăm sóc; những người trong đoàn đón dâu, đưa dâu, dẫn lễ đều phải mặc đầy đủ trang phục truyền thống. Trang phục truyền thống trong lễ cưới của người Dao Tiền vừa thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của cộng đồng người Dao.

Có thể nói, trang phục của người Dao Tiền là một trong những loại hình trang phục được bảo tồn tốt nhất so với các dân tộc khác ở Sơn La cả về chất liệu, kiểu dáng, kỹ thuật tạo hoa văn, các loại hoa văn, cách thức cắt may và phương thức sử dụng. Hiện nay, trang phục của người Dao Tiền vẫn hoàn toàn được dệt bằng vải bông, nhuộm chàm, ngoài trang trí bằng hoa văn in sáp ong thì không có hoa văn nào khác, người ta diềm gấu váy bằng một đường vải trắng và một đường vải đỏ, viền nhỏ, trên cạp cũng viền một đường vải trắng, có xếp nếp một chút để tạo độ xòe cho váy, mềm mại khi mặc. Áo được may theo lối xẻ ngực có thêu rất điểm hoa văn viền theo gấu áo, lưng áo, viền chỉ nẹp áo, hoa văn đậm đặc ở cổ tay áo, sau cổ đính các đồng tiền. Hoa văn thêu trên áo mang đặc trưng văn hóa của người Dao đó là dấu ấn Bàn Vương, dấu thập ngoặc, hình con chó, nốt chân chó, cây thông.... Áo không có cúc, thường lồng 2 cái vào nhau, khi mặc thường mặc áo kép, khép xéo vạt, dùng thắt lưng buộc quanh bụng để giữ áo. Thắt lưng là một sợi dây dài hơn 2m được dệt bằng một loại khung dệt nhỏ bằng các loại sợi màu đã se chắc. Khăn đội đầu được thêu hoa rậm rạp ở 2 đầu khăn bằng chỉ màu đỏ hoặc hồng rực rỡ, gắn các tua bông đỏ, hồng. Chân quấn xà cạp cũng được thêu chỉ màu đen trên nền vải trắng.

Trong đám cưới, người Dao Tiền kiêng mặc đồ màu trắng nên trang phục trong lễ cưới chủ yếu là trang phục màu đen. Ngày cưới, cô dâu chú rể sẽ mặc trang phục mới nhất, đẹp nhất do tự tay cô dâu làm cho mình, thêm bộ trang phục mẹ chồng, mẹ đẻ chuẩn bị cho, họ hàng đến cho mượn.

Thứ tư, lễ cưới của người Dao Tiền bảo tồn các nét văn hóa ẩm thực.Mặc dù hiện nay, trong thời kỳ kinh tế thị trường, nhiều hàng hóa được lưu thông, giao lưu văn hóa, kinh tế diễn ra mạnh mẽ, nhưng trong Lễ cưới người Dao Tiền, các loại lễ vật, cách chế biến các món ăn truyền thống vẫn được gìn giữ. Điều này thể hiện ở việc chuẩn bị các đồ lễ dẫn cưới của nhà trai sang nhà gái, các món ăn trong các bữa cỗ: thịt lợn chua, rượu hoẵng, bánh rán…

Thịt chua: là món ăn ngày thường và cũng là đồ lễ dẫn cưới, món ăn trong các mâm cỗ cưới. Các gia đình đều phải nuôi lợn để chuẩn bị sẵn thịt chua, nếu đám cưới bị trì hoãn thì đưa ra dùng và làm gối mẻ khác vào để lúc nào trong nhà cũng có sẵn vì thịt chua phải làm ít nhất 6 tháng mới có thể ăn được và có thể để được 2-3 năm.

          Bánh rán: dùng bột gạo nếp nặn thành hình tròn, không có nhân, rán lên (trước đây không có đường, hiện nay họ cho thêm chút đường cho ngọt). Tuy nhiên, theo quan niệm của người Dao Tiền, đám cưới không thể thiếu được các cặp bánh rán, bánh to tượng trưng là mẹ, bánh nhỏ tượng trưng là con, cầu mong sau này đông con nhiều cháu, hạnh phúc của đôi trẻ sẽ được vẹn tròn. Vì vậy, mỗi đám cưới, các bà, các mẹ, các chị em vẫn xúm nhau lại làm để bánh rán cúng tổ tiên, đưa sang nhà gái, biếu những người giúp đám cưới.

Rượu hoãng: là loại rượu không chưng cất, ủ men giống như rượu nếp của người Kinh, chắt lấy nước đặc màu trắng đục, có mùi thơm, say nồng. Rượu hoãng không thể thiếu được trong nghi lễ cúng của đám cưới cũng như đồ lễ dẫn sang nhà gái.

Thịt lợn sống: có thể nói không dân tộc nào lại làm đồ lễ dân cưới sang nhà gái nhiều thịt lợn như vậy. Trước đây, khi điều kiện kinh tế khó khăn thì mỗi gia đình có thể mổ 03 con lợn nhỏ (khoảng 40-50kg); ngày nay, điều kiện kinh tế tốt hơn nên mỗi gia đình đều mổ lợn to từ 100kg trở lên để dẫn lễ sang nhà gái. Lợn mổ ra, được xẻ thành các phần theo vai vế, họ hàng bên nhà gái. Nhà gái cũng tổ chức lễ đón nhận trang trọng theo đúng phong tục, thể hiện lòng biết ơn đối với nhà trai.

Thứ năm, Lễ cưới của người Dao Tiền thể hiện tính cộng đồng, sự chia sẻ của dòng họ, gia đình hai bên: do xem tuổi kỹ lưỡng và có những quy định cụ thể nên người Dao Tiền tuyệt đối không có hôn nhân cận huyết, người trong cùng một dòng họ muốn lấy nhau phải cách nhau từ 3-5 đời, tuổi kết hôn trẻ nhưng phụ nữ ít khi kết hôn dưới 18 tuổi, vì vậy, hiện tượng tảo hôn rất ít xảy ra, đây cũng là những tập quán đẹp góp phần bảo tồn giống nòi, gia đình, dòng họ của người Dao. Người Dao Tiền kết hôn một vợ một chồng, không có hiện tượng đa thê và họ chủ yếu kết hôn cùng tộc, thậm chí cùng ngành Dao, ít kết hôn khác tộc.

Lễ cưới của người Dao Tiền ởhuyện Vân Hồ nói riêng và tỉnh Sơn La nói chung là một hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần đặc sắc; Đây là một mảng màu trong bức tranh đa sắc màu của nền văn hóa Việt Nam. Lễ cưới dân tộc Dao thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, bảo tồn nhiều giá trị di sản văn hóa như: tín ngưỡng dân gian, nghi lễ truyền thống, ẩm thực, trang phục….

Đám cưới người Dao Tiền ngày nay có một số thay đổi so với trước kia khi có sự pha trộn các yếu tố hiện đại như cô dâu, chú rể mặc trang phục hiện đại, chụp ảnh cưới, trong lễ cưới chủ yếu dùng tăng âm, nhạc hiện đại nhưng những nghi lễ truyền thống vẫn được duy trì. Với người Dao Tiền, đám cưới không chỉ là nghi lễ tác thành cho đôi trẻ mà còn thể hiện những quan niệm, tín ngưỡng dòng tộc, là dịp để anh em, họ hàng họp mặt, chung vui cùng gia chủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971) Người Dao ở Việt Nam. Nxb Khoa học xã hội - Hà Nội
  2. Diệp Đình Hoa (), Người Dao ở Trung Quốc (qua những công trình nghiên cứu của học giả Trung Quốc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  3. Phan Thị Phượng (2015), Trang phục và nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Dao Đỏ ở Lào Cai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  4. Chảo Văn Lâm (2015), Nhà ở truyền thống của người Dao tuyển ở Lào Cai, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
  5. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La (2014). Báo cáo Công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Mông và Dao.
  6. Tư liệu điền dã tại tiểu khu Sao Đỏ huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.
  7. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2020), Địa chí Sơn La, quyển 1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
  8. Lịch sử hình thành huyện Vân Hồ, nguồn: https://vanho.sonla.gov.vn/1311/31999/63371/lich-su-huyen-van-ho, ngày truy cập 18/8/2021
  9. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Vân Hồ,số liệu thống kê dân số tháng 6/2020.

Nghi lễ truyền thống trong đám cưới của người Dao Tiền, nguồn: http://dsvh.gov.vn/nghi-le-truyen-thong-trong-dam-cuoi-cua-nguoi-dao-tien-3115, ngày truy cập 23/8/2021.