Tà Xùa là xã vùng cao còn nhiều khó khăn của huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La; cách trung tâm huyện 14,5 km. Phía Bắc giáp xã Bản Mù, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái; phía Nam giáp xã Phiêng Ban, phía Đông giáp xã Suối Tọ và xã Suối Bau huyện Phù Yên; phía Tây giáp xã Làng Chếu và xã Xím Vàng huyện Bắc Yên. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 4.138,61 ha; trong đó, đất nông nghiệp có 2.457,71 ha, chiếm 59,4%. Địa hình chủ yếu là đồi, núi... Bởi vậy, cho đến nay sinh kế chính của người Mông ở xã Tà Xùa chủ yếu vẫn là trồng trọt, chăn nuôi và khai thác các nguồn lợi từ tự nhiên. Trong đó, cây chè được xác định là cây trồng chủ lực, mang lại thu nhập chính cho người dân địa phương.

Từ lâu, Tà Xùa đã nổi tiếng với chè san tuyết cổ thụ được trồng cách đây trên dưới 200 năm. Trên cơ sở đó, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phá bỏ thuốc phiện thay vào đó cây chè được chọn làm cây công nghiệp mũi nhọn để phát triển nông nghiệp của địa phương. Chè được trồng chủ yếu trên nương và một số ít ở xung quanh vườn nhà.

Trên thực tế, chè không phải là giống cây trồng mới tại Tà Xùa bởi nơi đây hiện có hơn 1.000 gốc chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi đang được bảo tồn và cho thu hoạch với sản lượng khá cao. Bên cạnh đó, từ cuối những năm 1970, hợp tác xã trồng chè Chung Trinh cũng đã được thành lập, tham gia lao động sản xuất là các đội viên của bốn bản Tà Xùa A, Chung Trinh, Mống Vàng và Tà Xùa C. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ sản xuất, năng lực quản lí, đầu ra cho sản phẩm… dẫn đến làm ăn kém hiệu quả nên hợp tác xã này chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian, sau đó bị giải thể… Mặc dù vậy, cây chè vẫn được đồng bào lưu giữ, không bị phá bỏ hoàn toàn. Từ năm 1998, sau khi Chương trình 135 được triển khai, đời sống kinh tế người dân dần có sự chuyển biến. Cây chè được Ủy ban nhân dân xã và người dân địa phương quan tâm đầu tư, phục hồi sản xuất. Hiện nay, tổng diện tích chè trong toàn xã là 194 ha, trong đó diện tích cây chè cho thu hoạch là 138,2 ha, diện tích chè chăm sóc chưa cho thu hoạch là 41,178 ha, diện tích chè trồng mới là 14,622 ha; số cây chè cổ thụ được đưa vào bảo tồn là 1.500 cây; thực hiện thí điểm mô hình ghép mắt cây chè là 400 cây. Năng suất chè búp tươi đạt từ 4,5 đến 5 tấn/ha. Sản lượng chè búp tươi năm 2019 đạt từ 15 đến 18 tấn. Có thể nhận thấy, diện tích cây chè đang có xu hướng tăng dần qua các năm gần đây. Hầu hết, tất cả các hộ người Mông trong xã đều có nương trồng chè. Hộ nào ít cũng trồng được 1 đến 2 ha, hộ trồng nhiều lên đến 5,6 ha. Theo anh Lù A Châu (bản Chung Trinh) cho biết: thông thường 10 kg chè búp tươi sau khi chế biến sẽ cho ra 2kg chè khô. Chè vụ Xuân Hè tuy đạt sản lượng nhưng chất lượng không cao nên giá bán thường dao động từ 200 đến 250 nghìn/1 kg. Ngược lại, chè vụ Đông tuy sản lượng búp thu được ít song chất lượng chè được nhận xét là thơm ngon, vị đậm đà và đạt nước hơn nên giá bán thường sẽ cao hơn chè vụ Xuân Hè từ 2 - 3 lần; đặc biệt, gần đến những dịp cuối năm như Tết Nguyên đán của đồng bào miền xuôi... chè Tà Xùa có thể bán được với giá lên tới 1 triệu đồng 1 kg.

Trước đây, người Mông sao chè bằng phương pháp thủ công. Chè được sao bằng bếp củi trên những chiếc chảo sắt to. Từ đầu những năm 2000 trở lại đây, được sự hỗ trợ vốn của Nhà nước, đồng bào đã mua máy sao chè về sử dụng, từ đó công việc sao chè cũng đỡ vất vả và đạt hiệu quả hơn. Ông Lù A Chua (bản Chung Trinh) cho biết: Nhà ông có khoảng 2 ha chè đang cho thu hoạch, “một năm tính cả lúc đắt lúc rẻ thì cũng thu được khoảng 50 triệu đồng”. Việc đưa máy móc vào chế biến chè đã góp phần giảm tải sức lao động của người phụ nữ, đồng thời chè sao chín đều hơn, được nước hơn... Từ đó giá chè cũng tăng lên đáng kể, góp phần nâng cao đời sống kinh tế của đồng bào.

Hiện nay, người Mông không chỉ bán chè ở chợ huyện hay đợi lái buôn lên bản thu mua, với sự phát triển của kinh tế, việc giao lưu được mở rộng, một số người dân đã biết liên lạc và tạo mối làm ăn với các thương lái ở dưới xuôi, đưa đặc sản chè Tà Xùa đến gần hơn với mọi miền của Tổ quốc chứ không còn bó hẹp tiêu thụ trong địa bàn huyện Bắc Yên hoặc tỉnh Sơn La như trước. Có thể nhận thấy, với một tộc người vẫn dựa vào kinh tế nông nghiệp làm chủ đạo thì cây chè đã mang lại cho người Mông nơi đây một nguồn thu nhập có giá trị kinh tế tương đối cao và ổn định.

Cách đây vừa tròn 60 năm, vào những ngày cuối tháng 1/1962 chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng cùng đoàn công tác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đã tới thăm Khu Tự trị Thái - Mèo. Cùng đi với Thủ tướng có đồng chí Nguyễn Tạo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và một số cán bộ của các bộ, ngành và cơ quan Trung ương.

Tại Sân bay Điện Biên Phủ, đồng chí Lê Trung Đình - Bí thư Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Cầm Ngoan - Quyền Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Thái - Mèo, Thiếu tướng Bằng Giang - Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, cùng các đồng chí đại diện Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Khu Tự trị Thái - Mèo và châu Điện Biên đã ra sân bay đón chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng các đồng chí trong đoàn công tác. Thủ tướng đã đến đặt vòng hoa viếng mộ các liệt sĩ hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, thăm đồi A1, thăm hợp tác xã Nà Nưa, Nông trường Điện Biên và nói chuyện với cán bộ, bộ đội Điện Biên Phủ.

Trên đường đi Tuần Giáo, Mường Lay, Thủ tướng ghé thăm Công trường 426, thăm hợp tác xã khai hoang của đồng bào huyện Thụy Anh (Thái Bình). Tại Mường Lay, Thủ tướng đã đi thăm cửa hàng mậu dịch, đến xem mô hình sản xuất ép mía, thái sắn bằng sức nước của hợp tác xã Hoa - Việt và nói chuyện với cán bộ, bộ đội, nhân dân châu Mường Lay. Trên đường về Sơn La, Thủ tướng đã nghỉ lại Tuần Giáo, gặp gỡ các cán bộ, chiến sĩ thi đua của châu. Thủ tướng đã tới thăm hợp tác xã khai hoang Bình Thuận của đồng bào tỉnh Thái Bình, nói chuyện với cán bộ, nhân viên châu Thuận và các cơ quan, xí nghiệp của Khu.

Tại Thị xã Sơn La (thành lập tháng 10/1961), trung tâm Khu Tự trị Thái - Mèo, gần 5.000 đồng bào, cán bộ, bộ đội, công an nhân dân vũ trang và đại biểu nhân dân 18 châu trong Khu Tự trị đã tổ chức mít tinh chào mừng Thủ tướng cùng các đồng chí trong đoàn công tác. Phát biểu tại buổi mít tinh, Thủ tướng đã chuyển đến đồng bào các dân tộc Tây Bắc lời thăm hỏi thân ái của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh; căn dặn mọi người tăng cường đoàn kết, làm tốt hơn nữa công tác sản xuất, học tập văn hóa, để góp phần mau chóng xây dựng miền Tây Bắc thành hòn ngọc quý của nước ta. Thủ tướng nhấn mạnh những nhiệm vụ Khu Tự trị Thái - Mèo cần tập trung thực hiện, bao gồm:

“- Phát triển nông nghiệp một cách mạnh mẽ và toàn diện. Đó là nhiệm vụ rất chủ yếu.

- Phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp địa phương.

- Đẩy mạnh công tác lâm nghiệp như khai thác bảo vệ và trồng cây gây rừng (cấm phá rừng).

- Phát triển giao thông vận tải, tài chính, ngân hàng và mậu dịch (đặc biệt là đường sông).

- Đẩy mạnh công tác tư tưởng, giáo dục, văn hóa và y tế.

- Tăng cường công tác giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ biên giới.

- Tích cực đào tạo cán bộ, cải tiến tổ chức biên chế và lề lối làm việc” [5].

Thay mặt Khu ủy Tây Bắc và chính quyền Khu Tự trị Thái - Mèo, đồng chí Cầm Ngoan - Quyền Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu phát biểu chào mừng, báo cáo những thành tích của Khu đã đạt được trong những năm qua với Thủ tướng và các thành viên trong đoàn, khẳng định lời hứa quyết tâm:

“- Ra sức củng cố và phát triển phong trào hợp tác xã, nông trường quốc doanh tiến lên mạnh mẽ và vững chắc, đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp địa phương và công nghiệp, mở mang đường xá, đồng thời phát triển và xây dựng các mặt về kinh tế và văn hóa khác, đảm bảo thực hiện kế hoạch năm 1962 thắng lợi vượt mức và toàn diện.

- Tăng cường đoàn kết dân tộc một cách thiết thực hơn nữa, tích cực củng cố cơ sở, giữ gìn trật tự trị an bảo vệ sản xuất, bảo vệ bản mường và bảo vệ biên cương của Tổ quốc, đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện từng bước tiến kịp, từng mặt tiến vượt miền xuôi, hòa với miền Bắc tiến đều lên chủ nghĩa xã hội” [3].

Sau buổi mít tinh, Thủ tướng đã đến xem triển lãm tiểu thủ công nghiệp của Khu. Trên đường về Hà Nội, Thủ tướng đã ghé thăm hợp tác xã khai hoang Hoàng Văn Thụ của đồng bào tỉnh Hưng Yên tại châu Mai Sơn. Thủ tướng cũng đã đến xem nơi trồng bông thí nghiệm của Sở Nông nghiệp Khu; thăm khu vực trồng chè, chăn cừu của Nông trường Mộc Châu; thăm một đơn vị bộ đội và nói chuyện với cán bộ, công nhân viên châu Mộc.

Trong thời gian 5 ngày ở Tây Bắc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng các đồng chí trong đoàn công tác đã đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các châu Điện Biên, Mường Lay, Tuần Giáo, Thuận Châu, Yên Châu, Mộc Châu, Thị xã Sơn La. Ở các châu, đoàn công tác đã đến thăm một số hợp tác xã địa phương, hợp tác xã khai hoang, nông trường, công trường, cơ quan, trường học… Đến đâu, đoàn cũng nhận được sự đón tiếp rất nồng nhiệt của cán bộ, bộ đội và nhân dân các dân tộc. Thủ tướng cùng các đồng chí trong đoàn cũng đã dự bữa cơm thân mật với các đại biểu, cán bộ, chiến sĩ thi đua ở Điện Biên, Mường Lay, Tuần Giáo và Thị xã Sơn La.

Kết thúc chuyến thăm, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư chào mừng và chúc Tết nhân dân các dân tộc Khu Tự trị Thái - Mèo. Trong thư, Thủ tướng bày tỏ: “Qua cuộc đi thăm này, tôi rất vui mừng phấn khởi vì hai lẽ: Thứ nhất, là tôi đã có dịp bày tỏ nhiệt tình thắm thiết và lòng yêu mến của Trung ương Đảng, của Chính phủ và của đồng bào cả nước đối với đồng bào khu Tây Bắc. Thứ hai, là vì tôi được thấy rõ tình hình Tây Bắc thật đúng như Trung ương Đảng và Chính phủ đã nhận định: Đất đai, rừng núi, sông ngòi khu Tây Bắc có rất nhiều của cải thiên nhiên. Đồng bào Tây Bắc giầu lòng yêu nước, giầu tinh thần cách mạng và có nhiều tài năng xây dựng đời sống mới” [4]. Thủ tướng bày tỏ tin tưởng và hy vọng nếu như biết khai thác và phát huy tốt hơn nữa tiềm năng phong phú của mình thì Khu Tự trị Thái - Mèo “sẽ trở nên một vùng rất giầu và rất đẹp, quý báu như một hòn ngọc của nước Việt Nam ta” [4]. Để làm được điều đó, Thủ tướng căn dặn các cấp ủy Đảng, chính quyền và đồng bào các dân tộc Khu Tự trị phải thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa và chính sách dân tộc. Trong nông nghiệp, phải ra sức sản xuất nhiều lúa, ngô, khoai, sắn để đủ ăn, có dự trữ và có thêm nhiều lương thực bán cho Nhà nước; tất cả các bản, các xã đều phải chăm lo trồng cây công nghiệp; phải đẩy mạnh việc chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt; phải chăm sóc trâu, bò cho béo tốt và sử dụng trâu, bò nhiều hơn. Đến thăm triển lãm tiểu thủ công nghiệp của Khu và một số cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn, Thủ tướng khẳng định đồng bào Khu Tự trị biết nhiều nghề, làm được nhiều thứ hàng đẹp và tốt như các loại nông cụ, các loại vải, đồ đan, đồ gỗ, đồ sành, v.v… Thủ tướng khuyến khích đồng bào các dân tộc “hãy ra sức phát triển các nghề đó và làm thêm nhiều nghề khác”, đồng thời giao nhiệm vụ: “Khu Tự trị Thái - Mèo phải cố gắng tự cung cấp một phần ngày càng lớn về hàng tiêu dùng và các thứ nông cụ cải tiến” [4]. Về văn hóa, Thủ tướng căn dặn: “Mọi người đều phải chăm học. Ai chưa biết chữ phải cố học để đọc thông viết thạo. Ai đã biết chữ phải cố học để mỗi năm lên được một lớp. Các cán bộ và thanh niên phải gương mẫu trong việc học. Phải gắng sao cho mỗi xã đều có trường cấp 1, mỗi châu đều có trường cấp 2, rồi cấp 3… Tất cả các xã, các bản đều phải giữ đúng vệ sinh và ra sức tiêu diệt bệnh sốt rét” [4]. Đặc biệt, Thủ tướng bày tỏ vui mừng trước những thành tích đạt được của các hợp tác xã khai hoang: “Tôi có đến thăm một số hợp tác xã của đồng bào Thái Bình và Hưng Yên lên khai hoang. Tôi rất vui mừng thấy rằng đồng bào Khu Tự trị Thái - Mèo và đồng bào ở miền xuôi lên đã đoàn kết thân ái với nhau, hết lòng giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà, nhờ vậy mà các hợp tác xã khai hoang đã thu được kết quả tốt bước đầu. Đồng bào các dân tộc ở Tây Bắc hãy chuẩn bị đón thêm nhiều đoàn anh em bà con ở miền xuôi lên, để cùng nhau sát cánh xây dựng Khu Tự trị Thái - Mèo xã hội chủ nghĩa” [4]. Thủ tướng mong muốn Khu Tự trị Thái - Mèo thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thông qua việc hướng ứng và tổ chức cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi.

Bên cạnh tình cảm vui mừng, phấn khởi trước những thành tích, đổi thay tích cực trên vùng đất Tây Bắc, Thủ tướng cũng bày tỏ những trăn trở, băn khoăn trước thực trạng phá rừng bừa bãi và hệ thống giao thông còn nhiều yếu kém của Khu Tự trị. Thủ tướng nhắn nhủ: “Rừng là của quý của khu Tây Bắc và của cả nước ta. Ở Khu Tây Bắc nhiều rừng bị đốt phá, đồi núi trơ trọi, đó là điều không tốt. Đồng bào phải hết sức giữ gìn rừng. Đẵn gỗ và đốt nương phải theo sự hướng dẫn của cán bộ trông nom về rừng. Vừa đẵn gỗ, vừa phải ra sức trồng cây” [4]. Về giao thông vận tải, Thủ tướng không hài lòng khi thấy những đoạn đường số 6 hiện đang chưa được tốt. Thủ tướng nhắc nhở cán bộ giao thông tránh mọi lãng phí về tiền của, sử dụng hợp lý khả năng của máy móc và nhân lực trên các công trường cầu đường hiện nay. “Không nên để tình trạng xây dựng nhà ở của công trường thì rất tốt đẹp, tốn hàng vạn đồng trong khi đó đường xe thì đá lổm chổm như trên dọc đường Tuần Giáo - Mường Lay” [6].

Một điều cần nhấn mạnh là ngay từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, miền Bắc còn nghèo nàn, lạc hậu, vừa mới bắt tay thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) để bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn đang diễn ra quyết liệt, nhưng với tầm nhìn chiến lược, Thủ tướng đã nhận rõ những tiềm năng to lớn của Tây Bắc và một tương lai tươi sáng đang đón chờ Tây Bắc ở phía trước. Đặc biệt, Thủ tướng đã chỉ ra những hình ảnh hết sức cụ thể của miền đất Tây Bắc trong tương lai, đó là: trong văn hóa “Phải tiến đến mở trường Đại học ở khu” [4]; và trong kinh tế “Khối nước sông Đà, gần một nửa khối nước sông Hồng, rồi đây sẽ không còn là nguồn thủy tai để trở nên nguồn thủy lợi và sức điện. Tây Bắc sẽ biến thành một vùng công nghiệp quan trọng của nước ta” [7]. Bốn thập kỷ sau những lời khẳng định đó, vào những năm đầu thế kỷ XXI, Trường Đại học Tây Bắc thành lập theo Quyết định số 39/2001/QĐ-TTG ngày 23/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ và Nhà máy Thủy điện Sơn La chính thức được khởi công ngày 02/12/2005 là những công trình hiện thực hóa những nét phác họa về một bức tranh Tây Bắc hiện đại trong tương lai của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Sau chuyến thăm Khu Tự trị Thái - Mèo không lâu, trong bài viết “Bài ca Tây Bắc” gửi đăng trên Báo Tây Bắc, số 274, ra ngày 20/2/1962, Thủ tướng một lần nữa nhấn mạnh: “Tây Bắc, một hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc đang chờ đợi chúng ta, thúc giục chúng ta. Sức lực của đồng bào Tây Bắc, sức lực của nhân dân ta hãy mau chóng khai thác tài nguyên phong phú của Tây Bắc để xây dựng đời sống mới ở Tây Bắc, góp phần xây dựng đời sống mới ở miền Bắc nước ta” [7]. Cùng với đó, Thủ tướng đã gửi tặng hợp tác xã khai hoang Bình Thuận (Thuận Châu) một chiếc ô tô làm phương tiện vận chuyển. Đây là chiếc ô tô mà Thủ tướng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành tặng cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đó là kỷ vật vô cùng giá trị, có ý nghĩa động viên to lớn, khẳng định sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với công cuộc khai hoang, phát triển kinh tế miền núi nói riêng, cũng như đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Tây Bắc nói chung.

Sáu mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đoàn công tác của Trung ương lên thăm Khu Tự trị Thái - Mèo, miền đất Tây Bắc hôm nay đang thay da đổi thịt, từng bước hiện thực hóa những mong muốn và tin tưởng của Thủ tướng về một trong những hòn ngọc của Tổ quốc Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. P.V, “Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến với chúng ta”, Báo Tây Bắc, số 272, tháng 2/1962.
  2. Xã luận “Quyết tâm thực hiện những lời huấn thị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ lên thăm Khu Tự trị Thái - Mèo”, Báo Tây Bắc, số 272, tháng 2/1962.
  3. “Lời phát biểu của ông Cầm Ngoan - Quyền Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu trong buổi mít tinh chào mừng phái đoàn Đảng và Chính phủ lên thăm Khu ta”, Báo Tây Bắc, số 272, tháng 2/1962.
  4. “Thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi nhân dân các dân tộc Khu Tự trị Thái - Mèo sau khi đi thăm Tây Bắc”, Báo Tây Bắc, số 272, tháng 2/1962.
  5. “Thông báo của Ban Thường vụ Khu ủy Tây Bắc về việc đồng chí Phạm Văn Đồng - Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lên thăm Tây Bắc”, Báo Tây Bắc, số 273, Số đặc biệt tháng 2/1962.
  6. P.V, “Quyết tâm thực hiện lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng biến Tây Bắc thành hòn ngọc của nước ta”, Báo Tây Bắc, số 273, Số đặc biệt tháng 2/1962.
  7. Phạm Văn Đồng, “Bài ca Tây Bắc”, Báo Tây Bắc, số 274, ngày 20/2/1962.

Tháng 5 năm 2021, trong quá trình nghiên cứu về văn hóa của người Thái, nhóm nghiên cứu đã thực địa và phát hiện chiếc cày dùng cho người kéo tại gia đình  bà Hoàng Thị Họp, bản Hượn xã Chiềng Đông, huyện Yên Châu (Sơn La).

Qua trao đổi với cán bộ Phòng Văn hóa huyện Yên Châu, chúng tôi thu được các thông tin sau: chiếc cày được làm bằng gỗ có màu xám trắng, nhẹ, gỗ làm cày là loại gỗ được lấy trong rừng sâu, ít mắt, chịu nước tốt, gỗ có tên gọi là gỗ “rảnh”, cây to có đường kính 30cm, lá to tròn. Trên thân cày có các mối thắt bằng dây mây và mộng chốt, phần lưỡi cày có các vết gắn bằng cánh kiến. Cày đã mất một số chi tiết như: thanh nối với dây kéo, mất dây kéo (dây làm bằng da bò) và phần đeo lên vai người kéo, đặc biệt là lưỡi cày được đúc bằng gang. Cày có kích thước như sau: cao 50cm, phần buộc dây kéo dài 50cm, chiều dài của cày (không tính phần lưỡi) 140cm, phần cán cầm 13cm, đường kính trên thân gỗ dày 5 – 6cm, rộng 4 – 5cm, đường kính miệng 12cm. Phần gỗ bị dạn, nứt đã bị vôi hóa (màu trắng gà, rất cứng). Để sử dụng chiếc cày này, cần phải huy động sức lao động của 3 nhân lực, trong đó: 02 người kéo và 01 người đẩy, dùng trong canh tác nông nghiệp.

 

Chiếc cày phát hiện tại Yên Châu

Qua trao đổi với cán bộ Phòng Văn hóa huyện Yên Châu và người dân thì rất có thể chiếc cày đã có từ những năm 1930 – 1940, là dụng cụ để quan lại (phìa tạo) khai thác bóc lột sức lao động của người dân. Qua phát hiện chiếc cày của người Thái thêm một minh chứng cho thấy sự áp bức,bóc lột của chế độ xưa trong vùng dân tộc thiểu số trong đó có vùng Yên Châu (Sơn La).

Người Thái Sơn La có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng có liên quan đến sản phẩm gốm như: xên bản, xên mường, lễ hội cầu mưa, cúng rừng cầu may, cúng ma,… gốm dùng để đựng hương, đựng nước trong các buổi cúng tế… ngoài ra gốm được dùng làm vật trao tặng cho các đôi trai gái lúc lên vợ lên chồng, làm vật phẩm tặng lên nhà mới. Sản phẩm gốm có mặt ở khắp các bản làng người Thái sinh sống được người dân mang đi trao đổi với phương thức trao đổi lấy các nông sản như: bông, vải, thóc,… với quan niệm hàng hóa đem đổi càng xa thì giá trị càng cao.

Tháng 10 năm 2020, trong quá trình thực tế chuyên môn, nhóm nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu văn hóa các dân tộc Tây Bắc (Trường Đại học Tây Bắc) đã tiếp cận bộ sưu tập gốm cổ của gia đình ôngVũ Đại Tá ở Tổ 2Phường Quyết Tâm, TP. Sơn La, tỉnh Sơn La.

Qua quan sát, trao đổi với người sở hữu chúng tôi thu thập được một số thông tin sau:

  1. Loại thứ nhất(số lượng 5 hiện vật)

Chum to (tiếng Thái gọi là hay ham): Dùng để đựng, ngâm rượu, chứa nước, nhuộm chàm.Màu sắc: hanh đỏ, đen, trắng ngà. Kích cỡ: cao 52 - 55cm, đường kính miệng 22 - 25cm, đường kính đáy 20cm, cổ dài 5 – 7cm, có họa tiết hoa văn “gờ nổi” và hình gấp khúc nhỏ ở phần cổ bình. Xuất xứ và nhận định: hiện vật được sưu tầm năm 2019 tại xã Mường Chanh nơi có nghề gốm cổ của người Thái.

  1. Loại thứ hai (số lượng 14 hiện vật)

Chum nhỡ (tiếng Thái gọi là hay bắc): dùng để làm rượu cần, đựng măng chua,... Màu sắc: xám, trắng ngà. Kích cỡ: cao 35 – 40cm, đường kính miệng 20 – 22cm, đường kính đáy 17 - 20cm, cổ cao 3 - 5cm. Cổ bình thẳng, có gờ, bụng tròn thon đáy, đáy bằng, có họa tiết hoa văn 3 đường đắp nổi và họa tiết gấp khúc khắc chìm bao quanhphần cổ bình.Hiện vật được sưu tập tại xã Chiềng Chung, Chiềng Kheo (huyện Mai Sơn), và thành phố Sơn La.

  1. Loại thứ ba (số lượng 5 hiện vật)

Loại nhỏ nhất (tiếng Thái gọi là om) dùng đựng cá mắm, muối dưa, gia vị,...Màu sắc: đỏ, xám. Hiện vật có miệng loe, vai và thân thu dần về phía đáy, đáy bằng. Họa tiết hoa văn gờ nổi, hình răng cưa, sóng nước. Hiện vật được trang trí họa tiết hoa văngấp khúc và đường xóng nước đều nhau chạy quanh cổ và vai bình.Hiện vậtđược sưu tập tại xã Mường Chanh, người sở hữu bình gốm cho biết gốm được mua tại lò gốm trong xã Mường Chanh khoảng năm 1980 - 1985.

Gốm Mường Chanh được phát hiện tại gia đình ông Vũ Đại Tá

Nguồn ảnh: Vũ Đại Tá

 Dựa vào đặc điểm hình dáng và họa tiết hoa văn, màu sắc của gốm thì đây là loại gốm sản xuất tại xã Mường Chanh, được người dân mang tới các bản, xã và các vùng lân cận bán, trao đổi lấy thóc, vải từ những năm 1980 – 1981. Hiện nay, nghề làm gốm xã Mường Chanh, huyên Mai Sơn (Sơn La) còn duy nhất một hộ gia đình còn hoạt động sản xuất gốm.

Việc phát hiện bộ sưu tập gốm có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở trong việc nghiên cứu, phát hiện cho việc tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử nghề gốm và các loại hình gốm của cộng đồng người Thái trên địa bàn tỉnh Sơn La.

Bản Lụ thuộc huyện Mường Ét, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân Lào, cách cửa khẩu Quốc gia Chiềng Khương, huyện Sông Mã (Sơn La, Việt Nam) khoảng 8km, là một bản thuần nông nằm bên dòng Sông Mã, sông bắt nguồn từ tỉnh Điện Biên chảy qua địa phận xã Chiềng Khương (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La) thì đổ sang nước bạn Lào. Ở bản Lụ có nhiều nghề thủ công truyền thống tồn tại lâu đời phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân như nghề dệt, nghề trồng lúa nước,… đặc biệt là nghề làm gốm thủ công đã tồn tại lâu đời phục vụ nhu cầu sử dụng trong sinh hoạt, tín ngưỡng của người dân.

Trong quá trình nghiên cứu, thông qua một số cán bộ người Lào được biết nghề có từ rất lâu đời, tuy nhiên cụ thể từ khi nào thì không có những bằng chứng rõ ràng, qua trao đổi với trưởng bản và cán bộ Phòng Văn hóa, Thông tin và Du lịch huyện Mường Ét được biết nghề có cách ngày nay khoảng 120 - 200 năm, cũng có thông tin nghề gốm bản Lụ có cách đây khoảng 400 năm.

Nguồn gốc của nghề bắt nguồn từ một gia đình có 8 anh em người ở Xiềng Đồng, huyện Xiềng Thòng (tỉnh Luông Pha Bang) di cư tìm những nơi có nguồn đất màu mỡ, cạnh nguồn nước để sinh sống, lập nghiệp xây dựng bản làng. Trong quá trình di cư, họ đã chọn mảnh đất bên cạnh dòng Sông Mã, người Lào gọi là sông Sốp Hồng Lụ, để sinh sống. Họ cải tạo đất, đắp đất, làm mương dẫn nước vào ruộng để canh tác lúa nước và gọi cánh đồng bên dòng Sông Mã là cánh đồng Đông (bản Lụ ngày nay). Trong quá trình sinh sống, lao động, 8 anh em đã phát hiện ra chất đất ở cánh đồng Đông rất mịn, dẻo không có sỏi, tạp chất có thể làm gốm (8 anh em này từng làm gốm ở Luông Pha Bang), họ đã lấy đất nặn thành các đồ đựng đem phơi khô, sau đó chất củi đốt cho thật chắc, khô để sử dụng. Khi thấy các đồ vật làm từ đất hiệu quả phục vụ cho đời sống, 8 anh em tiến hành làm gốm, và nghề gốm ở bản Lụ bắt nguồn từ đó.

Để có cái nhìn rộng hơn, chúng tôi tiến hành so sánh với gốm của người Thái ở Sơn La, qua nghiên cứu thấy rằng gốm Lào khá tương đồng với gốm Thái như: quy trình chế tác, lò nung, mục đích sử dụng, tập quán sử dụng, thói quen sử dụng các đồ dùng được chế tạo bằng nguyên liệu sẵn có trong tự nhiên, nguồn khai thác đất,… Tuy nhiên, đất ở đây mịn hơn, gốm cũng ít méo và lỗi hơn. Giống với gốm Thái (Sơn La) trong dòng chảy của nền kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp, đời sống người dân khó khăn, các sản phẩm bằng chất liệu hiện đại nhập khẩu hạn chế, mặt khác các sản phẩm gốm lại đáp ứng được nhu cầu, phù hợp với thói quen sử dụng được người dân ưa chuộng, do đó nghề gốm bản Lụ có điều kiện phát triển.

Hiện nay, ở bản Lụ còn 4 gia đình làm gốm: gia đình Sổm Phăn; gia đình Bun My; gia đình Khăm Pan; gia đình Phăn Thoong. Người Lào thường làm gốm vào tháng 1 hoặc tháng 2 hằng năm, họ làm liên tục trong thời gian đó, gốm được làm nhiều mẻ với nhiều kiểu dáng, mẫu mã khác nhau phục vụ nhu cầu và mục đích sử dụng của người dân. Ở bản Lụ, người ta làm các loại sản phẩm: Chum dùng để ủ rượu, làm rượu cần, làm cá mắm; bát đựng thức ăn; cối để giã gia vị, đựng các loại hạt giống; chậu đựng nước; nồi để nấu ăn, đặc biệt có loại chum nhỏ dùng trong tang lễ. Trong tang lễ người Lào vẫn sử dụng hình thức hỏa táng, sau đó lấy xương đặt vào chum, lấy vải phủ kín rồi mới đem chôn.

Nguồn tiêu thụ gốm chủ yếu tại chợ thị trấn huyện Mường Ét, trong tỉnh Hủa Phăn và tỉnh Xiêng Khoảng. Khi mang bán tại các tỉnh xa họ thường chở bằng ôtô (như vận chuyển các loại hoa quả sang Chiềng Khương (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), còn gần hơn họ dùng xuồng máy để vận chuyển.

Đây là nghề gốm có nhiều tương đồng với gốm Thái ở Sơn La (Việt Nam) về tri thức, cách thức tạo ra sản phẩm cũng như nhu cầu và mục đích sử dụng gốm. Thông qua phát hiện này có thể thấy được khái quát về giá trị, nét tương đồng, văn hóa sử dụng, sự thích ứng của con người dựa vào môi trường tự nhiên. Đây cũng là căn cứ để các cơ quan chuyên môn có những định hướng nghiên cứu dài hạn, bởi lịch sử của nghề gốm đang có những nhận định chưa thực sự thống nhất, nguồn gốc cũng chưa tương đồng,… Vì vậy, cần có những nghiên cứu sâu hơn, để có những nhận định về nguồn gốc, giá trị, văn hóa cũng như lịch sử tồn tại của nghề gốm một cách khoa học góp phần làm phong phú vốn cổ của cộng đồng người Lào ven dòng Sông Mã.

Tháng 2/2021 trong quá trình điền dã văn hóa, nhóm nghiên cứu đã phát hiện tại gia đình ông Lò Văn Tương ở Phường Chiềng Cơi, TP Sơn La có 01 bộ khuôn dùng để làm cúc bướm của người Thái Đen. Qua khảo sát, trao đổi với chủ nhân bộ khuôn chúng tôi được biết khuôn được làm khoảng trước năm 1970 do ông Lò Văn Tương tự làm. Hiện nay, khuôn vẫn được sử dụng thường xuyên nhằm cung cấp lượng cúc cho người phụ nữ Thái làm áo cóm trên địa bàn tỉnh Sơn La. Khuôn còn khá nguyên vẹn, được làm bằng chất liệu đất nung, màu đỏ, chất đất mịn đặc trưng của loại đất dùng để làm gốm ở Chiềng Cơi trước đây.

Một số thông tin chúng tôi thu thập được như sau:

            Khuôn được làm bằng đất nung, theo kinh nghiệm của người thợ làm nghề chế tác cúc bướm (tiếng Thái gọi là Mắc Pém) thì khuôn được tạo bởi đất sét phơi khô sau đó nung qua lửa sẽ chịu được nhiệt độ cao, có độ bền, dễ sửa chữa. Khuôn dùng để đúc phôi, phần cúc thô ban đầu trong tạo hình cúc bướm.

Diện tích khuôn rộng 10cm, dài 25cm, cao 5cm, một đầu hở để đổ nguyên liệu dẫn vào các hàng khuôn bên trong. Khuôn gồm hai mặt ốp/ghép vào nhau, một chiếc trơn, một chiếc được người thợ gia công 24 con tương ứng mỗi con một cúc, độ dày của cúc dao động từ 1mm - 1,5mm. Khi đúc, 2 chiếc khuôn ốp vào nhau tạo sự chắc chắn và không chảy nguyên liệu ra ngoài. Trong quá trình đúc, người thợ dùng 2 chiếc kẹp tre (vam) dày 0,7cm, dài 40cm cố định một đầu và đầu còn lại được khóa bằng dây thép để khi đúc xong, tháo dây thép ra và lấy phôi.

Để tránh nhiệt độ cao người thợ thường tạo đế bằng gỗ và mặt trên được lót bằng bằng vải ướt sao cho khi đúc, tháo kẹp tre (vam) không bị cháy thanh tre và tránh nóng cho người đúc. Khuôn được làm thủ công bằng các vật liệu tự nhiên tuy khá đơn sơ nhưng lại có độ bền, chắc chắn, nhẹ và dễ di chuyển.

Để có bộ sản phẩm cúc bướm là kết quả của quá trình lao động chuyên cần, tài hoa khéo léo, người thợ đã gửi gắm tâm huyết qua cáchchế tạo khuôn dùng để đúc, nguyên liệu làm khuôn được lấy trong tự nhiên gần gũi với con người tạo ra những bộ cúc bướm đẹp mắt có tính đặc trưng trong bộ trang phục truyền thống của người phụ nữ Thái. Khuôn với chất liệu đất dễ kiếm, dễ sử dụng, dễ chế tác,đặc biệt có độ bền cao, quy trình tạo khuôn được đúc kết từ nhiều thập kỷ, sản phẩm phù hợp với tập tính sử dụng, đáp ứng các nhu cầu về văn hóa, đặc biệt là trang phục của cộng đồng người Thái Sơn La.

Khuôn đúc cúc bướm của người Thái Sơn La