Để phân biệt các tộc người với nhau, người ta thường căn cứ vào đặc trưng văn hóa của tộc người đó. Bên cạnh các đặc trưng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, trang phục chính là một thành tố văn hóa quan trọng giúp chúng ta dễ dàng nhận diện các tộc người và các nhóm ngành trong cùng tộc người với nhau. Trang phục Mông nói chung và nữ phục ngành Mông Đen nói riêng đã góp phần dựng xây một nền văn hoá Mông mang đậm bản sắc tộc người không dễ bị hoà lẫn, pha trộn dù ở bất kì nơi đâu.

            Nữ phục truyền thống của phụ nữ Mông Đentại xã Tà Xùa về cơ bản vẫn bao gồm các bộ phận: áo, váy, tạp dề, xà cạp… và một số trang sức kèm theo như nhẫn, vòng tay, hoa tai, vòng cổ. Nguyên liệu đặc trưng được sử dụng trong may mặc của người Mông là vải lanh. Quy trình để tạo ra một bộ nữ phục hoàn chỉnh yêu cầu người phụ nữ phải thực hiện tất cả các khâu từ làm đất trồng lanh, xe lanh, dệt vải, nhuộm vải, khâu thành váy áo. Đồng bào Mông thường chọn những chỗ đất đai màu mỡ, tơi xốp, bằng phẳng… để trồng lanh, như vậy sẽ cho năng suất lanh cao nhất.Lanh là giống cây khá dễ trồng do đó sau khi gieo hạt họ để lanh mọc tự nhiên và tập trung gieo trồng, chăm sóc những cây trồng khác như ngô, lúa, hái và sao chè... Sau thời gian khoảng 3 tháng, khi này vỏ lanh đã dày và có độ bóng tức là lúc lanh đã cho thu hoạch.

            Sau khi thu lanh về nhà, người ta bắt đầu tiến hành phơi khi trời nắng, không được để dính nước mưa và phải phơi liên tục cho đến khi cây lanh se lại và chuyển màu vàng mới đạt chuẩn. Sau đó người ta đưa lanh vào nhà để chỗ thông thoáng và đặc biệt không được để nước dính vào, khi có thời gian sẽ bắt đầu tước thành sợi nhỏ và nối chúng lại với nhau. Các công việc tiếp theo trong quá trình gia công nguyên liệu là xe sợi nhằm giúp cho sợi lanh trở nên mềm, mịn và đều sợi hơn. Sau đó người ta tiến hành guồng sợi (quay sợi) lại. Đặc biệt, trước khi dệt vải, người Mông còn phải đem sợi đi tẩy trắng. Công đoạn này có tác dụng làm cho sợi lanh trắng bóng, dai và mềm mịn hơn để quá trình dệt vải có thể thông suốt.

            Công cụ dệt của người Mông không cố định về kích thước hình dáng, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của mỗi gia đình mà công cụ dệt có hình dáng, kích thước to nhỏ khác nhau. Thông thường, vải dệt của người Mông ở Tà Xùa thường có khổ rộng từ 30cm đến 40cm, chiều dài thường từ 6m đến 7m đủ để làm hoàn chỉnh một chiếc váy.            Vải sau khi dệt xong sẽ được đem đi nhuộm chàm. Trong quá trình nhuộm vải, người Mông có kiêng kị phụ nữ đang mang thai không được đến gần thùng nước nhuộm cũng như không được tham gia vào quá trình nhuộm chàm, nếu không vải sẽ bị hỏng.

Vải lanh

            Về kĩ thuật trang trí trên vải của người Mông ở Tà Xùa bao gồm 2 kiểu kĩ thuật cơ bản là kĩ thuật thêu và kĩ thuật ghép vải. Cả hai kĩ thuật này được áp dụng nhuần nhuyễn và bổ sung cho nhau để tạo thành một bộ trang phục đặc sắc, trong đó kĩ thuật thêu được áp dụng phổ biến hơn. Khác với trang phục của phụ nữ các ngành Mông khác (Mông Hoa, Mông Trắng, Mông Xanh), trang phục của phụ nữ Mông Đen có đặc trưng với màu vải chàm đen truyền thống. Trên nền vải chàm, bằng đôi bàn tay khéo léo và óc sáng tạo người phụ nữ Mông đã tạo ra những họa tiết trang trí rất đa dạng và phong phú với hình núi, hình chân gà, cây cỏ,... Điểm đặc biệt ở đây là người phụ nữ không cần vẽ mô phỏng họa tiết hoa văn lên nền vải trước khi thêu mà dường như những họa tiết đó đã được định hình sẵn trong óc người làm và họ chỉ cần căn chỉnh sao cho đường kim mũi chỉ thẳng đường, thẳng lối khi thêu là được. Váy của phụ nữ Mông là loại váy xếp nếp nên thông thường một chiếc váy của người phụ nữ trưởng thành được làm với chiều rộng khoảng từ 3,5 đến 4 sải tay, chiều dài đến đầu gối người mặc. Áo của người Mông bản Tà Xùa A không phân biệt áo nam, áo nữ. Có chăng sự khác biệt chỉ thể hiện ở kích thước của áo. Áo nam thường to và rộng hơn áo của phụ nữ. Khác với trang trí váy, trên áo người ta chỉ tập trung trang trí phần cổ và tay áo. Thân áo thường được để nguyên phần vải lanh đã được nhuộm chàm mà không trang trí.

            Ngày nay dưới tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của đồng bào Mông đã có những chuyển biến rõ rệt. Nhiều phong tục tập quán, thói quen, lề lối cũ của đồng bào đang dần phai nhạt và đứng trước nguy cơ biến mất. Nhưng với người phụ nữ Mông Đen, thêu thùa, làm váy áo vẫn là công việc thường xuyên, liên tục và có tính kế thừa. Đồng thời, để hòa nhập với sự phát triển của thời đại mới, công việc thêu thùa làm trang phục của chị em phụ nữ Mông trong khoảng 3 thập kỉ trở lại đây cũng dần có những biến đổi nhất định. Sự biến đổi đó ngày càng trở nên phổ biến và được đồng bào chấp nhận, coi đó là lẽ tất nhiên của sự phát triển.

            Về nguyên liệu: Xưa kia, vải lanh là loại nguyên liệu duy nhất được sử dụng trong may mặc thì nay vải lanh đã được thay thế bằng vải sợi công nghiệp. Vải lanh dần biến mất trong đời sống thường nhật của bà con dân bản. Giờ đây chỉ vải lanh còn được sử dụng trong tang ma với ý nghĩ tâm linh “người Mông quan niệm người chết phải mặc trang phục bằng vải lanh thì sang thế giới bên kia ông bà mới nhận ra con cháu. Nếu không có trang phục bằng vải lanh mặc cho người quá cố thì phần hồn của họ không gặp được tổ tiên, không gặp được siêu thoát, không về phù hộ gia đình, thậm chí còn làm hại mọi người trong gia đình, làng bản”[1].

            Hiện nay, khi làm trang phục, người ta thường sử dụng vải sợi công nghiệp. Loại vải này có thể dễ dàng mua được dưới chợ thị trấn Bắc Yên, các cửa hàng buôn bán vải tại thành phố Sơn La, ngoài ra mỗi tuần một lần sẽ có xe tải chở đồ như vải, chỉ thêu, đồ trang trí váy áo, đồ trang sức... lên tận trung tâm xã để bán phục vụ những bà con không có điều kiện đi chợ huyện. Giá của loại vải này tương đối thấp, tùy khổ dài rộng của mỗi loại mà có giá khác nhau dao động từ 30 đến 70 nghìn đồng.

            Các loại chỉ thêu cũng rất phong phú về màu sắc. Hiện nay, chị em phụ nữ người Mông thường sử dụng len làm chỉ thêu với các màu sắc như vàng, đỏ, xanh, đen... từ đó tạo nên những chiếc váy sặc sỡ sắc màu. Cũng chính vì thế, nếu trước kia chúng ta có thể nhận diện các nhóm, ngành Mông qua trang phục thì nay, trang phục của các ngành Mông Đen, Mông Hoa và Mông Trắng đều có những nét giống nhau về chất liệu vải, chỉ thêu và thậm chí cùng cách trang trí vì thế dấu hiệu nhận diện các nhóm, ngành qua trang phục hiện nay không còn được rõ nét như xưa.

Họa tiết trên váy áo phụ nữ Mông Đen

            Về kiểu dáng trang phục: Hiện nay, phụ nữ Mông bản Tà Xùa A thường sử dụng phổ biến 2 loại váy.Một loại là váy được may và bán sẵn dưới chợ trung tâm hoặc các cửa hàng tạp hóa dưới huyện. Đây là loại váy được sản xuất theo dây chuyền công nghiệp, sản xuất hàng loạt. Hoặc các thợ may dưới huyện mua vải về may bán. Loại váy này có đặc điểm nhẹ, màu sắc bắt mắt, cạp chun khi mặc khá thoải mái, đặc biệt không cần phải thêu thùa, may vá mất thời gian, giá cả lại rất phải chăng so với công sức để làm ra một chiếc váy truyền thống. Thông thường loại váy này có giá từ 100 đến 150 nghìn đồng. Loại váy thứ 2 là loại bà con mua vải về tự thêu họa tiết mình thích sau đó may thành váy áo. Váy loại này thường giá thành mua vải và chỉ thêu chỉ khoảng 100 nghìn đồng nhưng thời gian dành cho việc thêu họa tiết và may thành váy áo hoàn chỉnh mất khá nhiều thời gian. Bởi thế, trong một năm nếu chăm chỉ các chị em cũng chỉ làm được từ 4 đến 6 chiếc váy, nếu làm cả áo thì được khoảng 2,3 bộ. Ưu điểm của loại váy này là ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè, có thể trang trí các họa tiết theo sở thích của từng người...

            Từ giữa nhập niên 90, phụ nữ Mông ở Tà Xùa đã bắt đầu biết sử dụng máy khâu vào việc may trang phục. Việc sử dụng máy khâu đã giúp chị em phụ nữ giảm được rất nhiều thời gian và công sức trong quá trình làm trang phục, đồng thời năng suất làm váy áo cũng tăng lên, đường may đều, thẳng đẹp hơn. Hiện nay, phần lớn mỗi hộ gia đình đều có từ 1 đến 2 chiếc máy khâu, tương đương mỗi người phụ nữ sẽ có 1 chiếc máy khâu phục vụ cho việc làm trang phục cho chồng con, anh em trong gia đình. Máy khâu chủ yếu được mua tại thành phố Sơn La hoặc Nghĩa Lộ (Yên Bái) với giá từ 4 đến 5 triệu đồng.

            Áo Mông hiện nay vẫn được làm và sử dụng nhưng không phổ biến như váy. Áo thường được làm với độ dài ngang ngực. Nếu là áo mùa đông sẽ được may thêm một lớp vải bông phía trong giúp người mặc ấm áp hơn. Nếu là áo sử dụng mùa hè thì thường chỉ may 1 lớp. Áo được trang trí phần tay và phần cổ áo.

            Các họa tiết trang trí hiện nay đa phần được mô phỏng lại từ các họa tiết được nhìn thấy trên váy áo hoặc trên nền vải công nghiệp mà người phụ nữ cảm thấy ưng ý. Họa tiết được làm theo sở thích không theo khuôn mẫu nhất định.

            Về cách thức sử dụng: Hiện nay váy vẫn được phụ nữ sử dụng phổ biến trong đời sống. Họ sử dụng linh hoạt cả 2 loại váy nêu trên, tuy nhiên váy may sẵn thường được chị em phụ nữ dưới 30 tuổi ưa thích sử dụng còn phụ nữ trung niên chủ yếu vẫn sử dụng loại váy thêu tay là chính.

Trang phục của phụ nữ Mông Đen ở xã Tà Xùa hiện nay

            Phụ nữ Mông thường kết hợp mặc giữa váy Mông cùng áo sơ mi có cổ hoặc áo phông – kiểu áo người Kinh vẫn mặc. Áo Mông thường chỉ được phụ nữ trung niên sử dụng nhưng không thường xuyên. Đối với thanh niên trong bản, áo Mông chỉ được họ mặc vào những dịp lễ hội, ngày tết còn ngày thường họ chuyển sang mặc áo sơ mi cho tiện lợi.

            Có thể nhận thấy, trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và giao lưu tiếp biến văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, biến đổi về trang phục là điều dễ hiểu. Trước kia để làm ra một chiếc váy hoặc chiếc áo, người phụ nữ Mông phải tốn rất nhiều thời gian và công sức từ làm đất, gieo hạt, trồng và chăm sóc, thu hoạch lanh sau đó là hàng loạt các quy trình chế biến sợi và dệt để tạo thành vải. Tiếp đó người phụ nữ phải dành vài tháng để thêu họa tiết trang trí và khâu vá thành một bộ trang phục hoàn chỉnh. Trong khi ngày nay, với sự giao thương mạnh mẽ chỉ cần đến chợ huyện hoặc các cửa hàng tạp hóa tại thị trấn, người ta đã có thể dễ dàng mua được một tấm vải hoặc một chiếc váy áo ưng ý với giá thành rẻ hơn rất nhiều lần so với cách làm ra trang phục truyền thống. Sự tiện ích này, một mặt giúp người phụ nữ Mông giải phóng sức lao động, giúp họ có được nhiều thời gian rảnh rỗi hơn cho bản thân, gia đình và có điều kiện để tham gia các hoạt động cộng đồng khác. Mặt khác hệ quả của sự tiện ích này chính là sự biến mất của vải lanh trong cuộc sống hàng ngày của đồng bào. Điều này đồng nghĩa với việc biến mất của  một giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người. Do đó, việc bảo lưu nghề trồng lanh dệt vải của đồng bào Mông là một việc làm cần thiết. Tuy nhiên, bảo lưu cần được hiểu theo nghĩa tích cực, không phải là khuyến khích người dân quay lại với công việc trồng lanh dệt vải trước kia mà cần phải có chính sách gắn với hình thành, phát triển làng nghề thủ công và phục vụ phát triển du lịch cộng đồng. Cùng với đó, khi xu hướng “Kinh hóa trang phục” ngày càng mạnh mẽ thì yêu cầu bảo lưu và gìn giữ trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số ngày càng đặt ra bức thiết. Các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc của người dân, giúp họ hiểu được trang phục truyền thống của đồng bào mình là kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc qua hàng nghìn năm và được cha ông gìn giữ, phát triển. Do đó, sử dụng trang phục của dân tộc không phải là lạc hậu, cổ hủ, không thích nghi với nhịp sống hiện đại mà đó chính là biểu hiện của sự trân trọng các giá trị văn hóa truyền thống tộc người.

 

[1]Đặng Thị Oanh (2011), Biểu tượng lanh trong dân ca dân tộc Mông, Hội Văn nghệdân gian Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.50