“NHẬT KÝ TRONG TÙ” – MỘT VĂN KIỆN LỊCH SỬ VÔ GIÁ

 

PGS.TS. Phạm Văn Lực

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu văn hóa các dân tộc Tây Bắc

 

“Nhật ký trong tù” ngoài giá trị về tư tưởng, triết học, văn học, văn hóa, nghệ thuật... còn là văn kiện lịch sử vô giá đối với dân tộc Việt Nam và nhân loại. Nhân kỷ niệm 50 mươi năm “Ngày Bác đi xa(2.9.1969 - 2.9.2019), tôi xin làm rõ thêm vấn đề này c th như sau:

  1. Hoàn cảnh ra đời và quá trình công bố tác phẩm “Nhật ký trong tù”

          Sau 30 mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Theo sáng kiến của Người Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám (5/1941) được triệu tập tại Cao Bằng, đánh đấu sự hoàn thiện trong thay đổi chiến lược cách mạng của Đảng và trực tiếp chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về sau này. Hội nghị cũng chủ trương tìm cách liên hệ với quân Đồng minh để cùng chống chủ nghĩa phát xít.

Trên tinh thần đó, ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) cùng đồng chí Lê Quảng Ba lên đường sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng cách mạng người Việt Nam và Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. Ngày 27/8/1942, Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 13 tháng và bị đầy đi giam cầm ở 30 nhà lao, thuộc 13 huyện khác nhau; đến ngày 10/9/1943 Người được thả tự do theo yêu cầu của tướng Quốc dân Đảng là Trương Phát Khuê. Việc trả tự do cho Người, nhằm lợi dụng Nguyễn Ái Quốc và một số yếu nhân theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống phát xít Nhật (Có ý kiến cho là theo yêu cầu của phía Hoa Kỳ).

Trong thời gian bị bắt giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã viết “Nhật ký trong tù” trong khoảng thời gian từ 29/8/1942 đến 10/9/1943. Đồng chí Vũ Kỳ - Bí thư riêng của Bác từ năm 1945 cho đến lúc Bác qua đời (1969), kể lại việc công bố cuốn “Nhật ký trong tù”: Những năm tháng sống bên Bác, Người rất giản dị, vài bộ quần áo vải, đôi dép cao su, không hòm rương, tủ mà hồi kháng chiến Bác đựng đồ đạc trong ba lô như ba lô của chiến sĩ. Thấy Bác có cuốn vở học sinh cũ, chữ viết bằng bút chì, một lần tò mò, đồng chí giở ra xem thì đó là những bài thơ bằng chữ Hán, Bác làm trong thời gian bị tù đày trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch. Đồng chí Vũ Kỳ đọc, các đồng chí sống bên Bác đọc, thấy khẳng khái, tràn đầy ý chí, nghị lực và những bài học về rèn luyện, tu dưỡng, những vần thơ về con người và yêu thương con người, thậm chí có cả những ý tưởng, những định hướng chiến lược cách mạng, văn hóa… Mọi người đề nghị Bác cho in ra để nhiều người đọc. Bác cười bảo rằng: Nhật ký là những tâm sự riêng của Bác, chứ không phải cho mọi người. Sau nghe các đồng chí xin nhiều lần, Bác đồng ý cho in, nhưng phải chọn lọc những bài thật cần thiết mới được xuất bản.

Ngày 14/9/1955, khi đến duyệt nội dung triển lãm về Cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu, Hà Nội, Người đã trao tác phẩm này cho đồng chí Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm và nói “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng”. Cuốn Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đưa ra trưng bày, giới thiệu tới công chúng ngay tại triển lãm ấy. Đồng chí Trần Ngọc Chương, nguyên Phó phòng Sưu tầm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đã được chứng kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh giao tác phẩm tại phòng trưng bày. Sau đó, đồng chí đã tiếp nhận hiện vật này tại cơ quan Bảo tồn, bảo tàng số 35, đường 296 (nay là phố Nguyễn Đình Chiểu), Hà Nội, ngày 14/9/1955.

“Nhật ký trong tù” có 134 bài, còn bài thứ 135: “Tâm xuất ngục, học đăng sơn” (Mới ra tù, tập leo núi) không nằm trong Tác phẩm, bởi lẽ tên của bài thơ đã nói rõ điều đó. Tức là bài thơ làm sau khi Bác đã ra tù. Bài số 1, không có tựa đề, được coi là bài đề từ cho Nhật ký. Trang đầu của Nhật ký, Bác viết bài đề từ, ghi 29-8-1932 đến 10-9-1933 và hình ảnh hai nắm tay xiềng xích giơ cao:

“Thân thể ở trong lao,

Tinh thần ở ngoài lao,

Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần càng phải cao” [4, tr. 263 – 440]

Như vậy, tính cả bài đề từ, tập “Nhật ký trong tù” có 134 bài thơ.

Trước đây, tập thơ này của Bác được xuất bản với 130 hoặc 132 bài. Điều đó có những lý do mang tính chất tế nhị của quan hệ quốc tế. Lúc đó, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng, nhưng trong tập thơ của Bác có bài “Cảm ơn Hầu Chí Minh” (Chủ nhiệm họ Hầu). Hầu Chí Minh, Chủ nhiệm chính trị chiến khu IV của Quốc Dân đảng, người đã trực tiếp thả Hồ Chí Minh theo lệnh của Tưởng Giới Thạch. Khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh, ông đã hết sức tôn trọng và cảm phục. Vì những lý do tế nhị, nên những năm trước các bài số 127, 128, 134 chưa được công bố.

Từ 1960, “Nhật ký trong tù” của Bác đã được dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Pháp (Luật sư Phan Nhuận, Việt kiều tại Pháp), tiếng Séc, tiếng Triều Tiên, tiếng Anh (Aileen Palmer dịch), tiếng Tây Ban Nha (Felix Pita Rodriguez dịch), tiếng Romania (Constantin Lupeanu)... và được đưa vào giảng dạy trong các trường học; tác phẩm đã được nhiều nhà nghiên cứu phân tích trên nhiều phương diện nội dung tư tưởng, tính chiến đấu, tính nhân văn và nghệ thuật thơ. Ngày 1 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định công nhận là “Bảo vật Quốc gia” cho Tác phẩm "Ngục trung Nhật ký".

Ngoài giá trị về tư tưởng, triết học, văn học nghệ thuật, tác phẩm còn có giá trị lịch sử vô giá.

  1. Giá trị lịch sử của tác phẩm “Nhật ký trong tù”

2.1. Nhật ký trong tù phản ánh một giai đoạn hoạt động cách mạng đầy gian truân của Hồ Chí Minh

Sau 30 mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941, hai đồng chí Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáo (lúc đó bí danh là Dương Hoài Nam) đã đi đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Theo sáng kiến của Người Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám (5/1941) được triệu tập tại Cao Bằng, đánh đấu sự hoàn thiện trong thay đổi chiến lược cách mạng của Đảng và trực tiếp chuẩn bị mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về sau này. Hội nghị cũng chủ trương tìm cách liên hệ với quân Đồng minh để cùng chống chủ nghĩa phát xít.

Trên thế giới, phát xít Đức đang tấn công như vũ bão vào Liên Xô. Hồng quân đang rút lui. Phát xít Đức có tới 266 sư đoàn, tức 6,2 triệu quân, 70.000 pháo cối, 6.600 xe tăng và pháo tự hành 3.500 máy bay chiến đấu,194 tàu chiến trên đất Liên Xô. Dự báo của Bác Hồ: Liên Xô sẽ thắng. Điều này đã được ghi trong Nghị quyết Trung ương Tám (khóa I) tháng 5-1941. Ta phải xây dựng và chuẩn bị lực lượng để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.

Hồ Chí Minh đi Trung Quốc nhằm mục đích liên lạc với lực lượng người Việt Nam lúc đó có mặt ở Trung Quốc và có thế lực dựa vào Tưởng Giới Thạch (lực lượng Việt Nam Quốc Dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Nghiêm Kế Tổ), để có thể cung cấp lực lượng vật chất cho mặt trận ở trong nước. Mặt khác, tại đây có lực lượng của đồng minh chống phát xít như lực lượng của Mỹ, của Quốc Dân đảng Trung Hoa, của Đảng Cộng sản Trung Quốc…để giải quyết một số nội dung liên quan đến thực lực. Ở trong nước, ta có lực lượng, nhưng vũ khí, đạn dược và thuốc men vô cùng thiếu thốn và lạc hậu. Nếu được sự giúp đỡ của các đồng minh và các lực lượng khác giúp, lực lượng ta sẽ mạnh hơn.

Trên tinh thần đó, ngày 13/8/1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) cùng đồng chí Lê Quảng Ba lên đường sang Trung Quốc để liên hệ với các lực lượng cách mạng người Việt Nam và Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài. Từ ngày 19-24/8/1942 Người đến Quảng Tây. Ngày 25/8/1942 Người đến Ba Mông thuộc huyện Tĩnh Tây và tạm trú ở nhà ông Từ Vĩ Tam. Ngày 26/8/1942 Người ăn tết Trung Nguyên với những người dân Trung Quốc. Ngày 27/8/1942 Hội gia đình kết nghĩa anh em cử ông Dương Đào (dân tộc Choang) đưa Bác đi tới huyện Bình Mã để đón ô tô đi Trùng Khánh (còn Lê Quảng Ba bị đá rơi vào chân thì ở lại). Tối ngày 27/8/1942, Hồ Chí Minh cùng ông Dương Đào đến xã Túc Vinh (huyện Đức Bảo-Quảng Tây) nghỉ trong một nhà trọ nhỏ thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 13 tháng và bị đầy đi giam cầm ở 30 nhà lao, thuộc 13 huyện khác nhau; đến ngày 10/9/1943 Người được thả tự do (có ý kiến cho là theo yêu cầu của phía Hoa Kỳ; cũng có ý kiến cho rằng tướng Quốc dân Đảng là Trương Phát Khuê quyết định trả tự do cho Người. Việc làm của Trương Phát Khuê nhằm lợi dụng Nguyễn Ái Quốc và một số yếu nhân theo chủ nghĩa dân tộc ở miền Nam Trung Quốc chống phát xít Nhật).

Trong thời gian bị bắt giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch Người đã viết Nhật ký trong tù trong khoảng thời gian từ 29/8/1942 đến 10/9/1943 bao gồm 133 bài thơ (không tính bài đầu tựa đề). Ngoài giá trị về tư tưởng, triết học, văn học nghệ thuật, tác phẩm còn có giá trị lịch sử sâu sắc.

Sau khi ra tù Hồ Chí Minh tham gia Trung ương Việt Nam cách mạng Đồng minh hội và Người có liên hệ với Trương Phát Khuê để tranh thủ sự ủng hộ cách mạng Việt Nam nhưng không hiệu quả.

2.2. “Nhật ký trong tù” tố cáo chế độ lao tù tàn bạo ở Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch và niền tin vào tương lai tươi sáng của người chiến sĩ cách mạng.

“Nhật ký trong tù” đã tố cáo chế độ lao tù tàn bạo, dã man ở Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch đã đầy đọa con người hết sức tàn nhẫn. Thế nhưng, xiềng xích lao tù và sự đầy đọa hết sức dã man đó vẫn không tiêu diệt được ý chí cách mạng của người cộng sản.

Nét nổi bật dễ nhận thấy nhất trong tập thơ “Nhật ký trong tù” là tinh thần yêu nước, lạc quan cách mạng, biến những điều trông thấy, những cảnh khổ cực, đọa đày ở trong tù trở thành niềm tin, tinh thần vươn lên khát khao đối với tự do, bình đẳng. Với Người, tự do chính là ánh sáng, là nguồn sức mạnh tiếp sức cho con người. Do đó, Người luôn luôn khao khát vươn tới tự do dù ở trong ước mơ, trong giấc ngủ, dù đó là một chút tự do hiếm hoi của chế độ nhà tù:

Hai giờ ngục mở thông hơi,

Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do

Những khát vọng tự do mạnh mẽ đó, thực chất là khao khát chiến đấu, giải phóng ách nô lệ cho nhân dân, cho dân tộc đang bị thực dân xâm chiếm. Sức mạnh của lời thơ cũng là lý trí của người chiến sĩ cách mạng, với quyết tâm vượt lên mọi đau khổ về thể xác, tâm hồn, giữ vững niềm tin vào tương lai:

Kiên trì và nhẫn nại,

Không chịu lùi một phân

Vật chất tuy đau khổ,

Không nao núng tinh thần”.

Nhưng bao trùm lên tất cả là tấm lòng yêu thương bao la của Người đối với nhân loại. Tư tưởng của tác phẩm đã phản ánh tâm hồn đại trí, đại nhân, đại dũng của người chiến sĩ cách mạng không chịu khuất phục trước kẻ thù.

Trang cuối cuốn Nhật ký trong tù có bút tích ghi chép bằng chữ Hán

Những vần thơ được viết trong tù ngục, những cảm nhận được hàng ngày trong nhà lao, trên đường đi đày từ nhà lao này sang nhà lao khác, phản ánh hiện thực về chế độ hà khắc của nhà tù Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch nhưng vẫn mang đến cho người đọc một cảm giác khoan khoái bởi một tâm hồn nghệ sĩ, một con người yêu thiên nhiên, yêu con người. Mười ba tháng bị đày ải trong nhà ngục đến nỗi:

Răng rụng mất một chiếc,

Tóc bạc thêm mấy phần,

Gầy đen như quỷ đói”

Nhưng những điều đó cũng không làm nhụt chí khí, lay chuyển niềm tin chiến thắng của người cộng sản, mà trái lại, những vần thơ còn thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ tài hoa, một trí tuệ anh minh, linh hoạt và sắc sảo, rất nhạy cảm với vẻ đẹp thiên nhiên:

Mặc dù bị trói chân tay,

Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng”.

Những phác họa về thiên thiên dưới cái nhìn của một người mất tự do nhưng vẫn đầy lạc quan tuy sơ sài mà chân thật, thắm tình non nước. Những câu thơ như lời tự sự, trữ tình, thể hiện tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: đó là một tấm gương nghị lực phi thường, một bản lĩnh thép vĩ đại không có gì lung lạc được:

Thân thể ở trong lao,

Tinh thần ở ngoài lao”.

Vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, những phút suy tư của Người là lời phản kháng mãnh liệt đối với chế độ hủ bại và tàn bạo của Tưởng Giới Thạch trong nhà lao cũng như ngoài xã hội, phản ánh tất cả nỗi gian nguy, hiểm trở trong cuộc sống lao tù. Tác phẩm thể hiện sự  ung dung như một khanh tướng của tác giả, nhưng cũng đanh thép như một tiếng hô xung phong của người chiến sĩ ngoài mặt trận:

Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,

Mỗi bước leng keng tiếng nhạc rung;

Tuy bị tình nghi là gián điệp,

Mà như khanh tướng vẻ ung dung”.

Ngục trung nhật ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tập nhật ký bằng thơ độc đáo, bao hàm hai yếu tố hòa hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn: chất trữ tình và chất thép.

Tập thơ Nhật ký trong tù có giá trị đặc biệt về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật diễn tả, mà tác giả chính là người Anh hùng dân tộc vĩ đại, Danh nhân Văn hóa - Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngoài tất cả những giá trị độc đáo nêu trên, tác phẩm Nhật ký trong tù còn là hiện vật độc bản, một văn bản gốc, là văn bản duy nhất có tại Việt Nam. Chính vì những lý do nêu trên, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử quốc gia) đã lựa chọn hiện vật gốc cuốn Ngục trung nhật ký (tức Nhật ký trong tù) của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị công nhận bảo vật quốc gia. Và ngày 1 tháng 10 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định công nhận bảo vật quốc gia cho Tác phẩm Ngục trung Nhật ký (Nhật ký trong tù).

2.3. “Nhật ký trong tù” làm rõ mối quan hệ của Việt Minh với lực lượng dân chủ ở Trung Quốc và quân Đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít Nhật những năm 1941-1945

            Sau khi ra tù, Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp chủ động tìm cách liên hệ với quân Đồng Minh để chống phát xít Nhật. Cuối 1944, một máy bay do thám Mỹ bị quân Nhật bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, Trung úy phi công William Saw nhảy dù xuống Cao Bằng và được Việt Minh cứu thoát khỏi vòng vây của Nhật-Pháp. Ngày 02/11/1944, Hồ Chí Minh đã tiếp Trung úy Saw một cách thân mật và Người tìm cách đưa viên phi công về Trung Quốc cho Tập đoàn không quân số 14 Mỹ. Đầu tháng 03/1945, nhân danh lực lượng Việt Nam giải cứu cho Trung úy Saw, Hồ Chí Minh tiếp xúc với AGAS. Phía Mỹ cảm ơn và tặng người thuốc men, tiền bạc. Người không nhận tiền. Ngày 17/3/1945, Hồ Chí Minh gặp Charles Fenn - Trung úy OSS (cơ quan tình báo chiến lược Mỹ). Charles Fenn đã thỏa thuận trên nguyên tắc giúp đỡ Việt Minh. Ngày 29/3/1945, Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Chennault tại Côn Minh (Trung Quốc). Trung tướng cảm ơn Việt Minh và sẵn sàng giúp đỡ những gì có thể theo yêu cầu. Còn Hồ Chí Minh Người khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật. Cuộc gặp diễn ra trong không khí tin cậy và hiểu biết lẫn nhau, những quan điểm lớn đầu tiên giữa Việt Nam và Mỹ được thống nhất [11, tr.243].

        Sau khi Bác về nước, Người vẫn giữ mối liên lạc với các cơ quan quân sự Mỹ. Tháng 6/1945, phía Mỹ, thông qua Thiếu tá A.Patty yêu cầu phía Việt Minh chuẩn bị một sân bay cho máy bay cỡ nhỏ có thể lên, xuống được, và Mỹ sẽ cho một đội sĩ quan, do một sĩ quan cao cấp sẽ nhảy dù xuống Tuyên Quang. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Bác giao nhiệm vụ chuẩn bị địa điểm làm sân bay. Sân bay được đặt tại hai xã Lũng Cò và xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. “Ngày 17/7/1945 đội “Con Nai” gồm 5 người do Thiếu tá Mỹ E.Tômat phụ trách nhảy dù xuống Tân Trào”, làm nhiệm vụ hoạt động huấn luyện cho khoảng 2000 bộ đội ta. Cho đến khi cách mạng tháng Tám thành công, người “bạn” ngoại quốc đầu tiên có mặt bên cạnh Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cũng chính là Hoa Kỳ…Thế nhưng, vì nhiều lí do khác nhau OSS không những đã bỏ lỡ cơ hội thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam mà còn đưa đến một kết cục bi thảm: Việt Nam và Mỹ từ chỗ cùng là đồng minh trong cuộc chiến chống phát xít Nhật ở châu Á dần dần đã trở thành kẻ thù “không đội trời chung” trong cuộc chiến ở Đông Dương và Việt Nam về sau này

KẾT LUẬN

           “Nhật ký trong tù” một văn kiện lịch sử vô giá, thể hiện nhất quán tư tưởng đấu tranh cho tự do của con người; là niềm mong mỏi giải phóng đất nước, khát vọng thiết tha giành độc lập, tự do cho đất nước, cho nhân dân.

Qua thời gian, từ khi tác phẩm ra đời, “Nhật ký trong tù” luôn có sức cuốn hút, lan tỏa kỳ diệu đến tận ngày nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Trường Chinh (1960). Cách mạng tháng Tám. Nhà xuất bản Sự thật,  Hà Nội
  2. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ (1998). Đại cương Lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
  3. (1995) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  4. (1995), “Nhật ký trong tù”, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
  5. Hồ Chí Minh - Toàn tập (Tập 3). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, từ trang 263 - 440
  6. (1980) Những sự kiện lịch sử Đảng (Tập1). Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội.
  7. (1995) Ngục Sơn La trường học đấu tranh cách mạng.Viện Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội.
  8. Dương Trung Quốc (2001). Việt Nam những sự kiện lịch sử  (1819 – 1945). Nhà xuất bản Giáo duc, Hà Nội.
  9. Nguyễn Thành (1991): Mặt trận Việt Minh. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
  10. (1965) Văn kiện của Đảng về chính sách dân tộc (tập 1). Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội.
  11. Aixee R.bartholmew Feis (2007). OSS và Hồ Chí Minh đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật. Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.