Nguồn: Tạp chí Giáo chức Việt Nam, số Đặc biệt 2&3/2023, p.333-336.

Tóm tắt: Người Mông là tộc người có dân số đông nhất ở huyện Bắc Yên (Sơn La). Ngày nay dướitác động quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, vấn đề nhận thức của con người cũng dần có sự biến đổi rõ nét, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi. Bài viết này đề cập đến các giải pháp giáo dục và nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ người Mông ở huyện miền núi Bắc Yên, tỉnh Sơn La nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tộc người trước những tác động to lớn của tình hình kinh tế - xã hội hiện nay.

Từ khóa: Nâng cao nhận thức, người Mông, Bắc Yên, văn hóa truyền thống


  1. Đặt vấn đề

Bắc Yên là huyện vùng cao ở phía đông bắc của tỉnh Sơn La, tọa độ địa lý từ 21013’23” độ vĩ bắc đến 104022’09” độ kinh đông. Phía đông giáp huyện Phù Yên; phía tây giáp huyện Mường La và huyện Mai Sơn. Phía nam giáp huyện Mộc Châu và huyện Yên Châu. Phía bắc giáp huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái, cách trung tâm thành phố Sơn La 100 km và thủ đô Hà Nội 240 km [1].

Theo kết quả điều tra, năm 2019 dân số Bắc Yên có 67.295 nhân khẩu (có 32.975 nam và 34.320 nữ), trong đó có 37.720 lao động; mật độ dân số trung bình là 61 người/km2, có 7 dân tộc anh em cùng chung sống: Mông, Thái, Mường, Dao, Khơ Mú, Kinh và Tày trong đó dân tộc Mông chiếm đa số với 45,85% dân số của huyện[1]. Người Mông cư trú chủ yếu ởcácxã, bản vùng caonhư Phiêng Ban, Tà Xùa, Háng Đồng, Làng Chếu, Xím Vàng, Hang Chú, Hồng Ngài, thị trấn Bắc Yên...

Người Mông là tộc người có đời sống văn hóa, phong tục tập quán, tín ngưỡng đa dạng và phong phú được thể hiện qua các hoạt động lễ hội trong năm như lễ cúng cơm mới, lễ tu su, lễ cầu mùa, tết truyền thống... và các tập tục trong chu kì đời người như sinh đẻ, cưới xin, tang ma. Các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người Mông hiện vẫn được truyền thừa và phát huy các giá trị độc đáo của nó vì vậy văn hóa tộc người Môngluôn gìn giữ được bản sắc văn hóa riêng biệt, hài hòa nhưng không bị trộn lẫn trong nền văn hóa chung của cả dân tộc Việt Nam.

  1. Nội dung nghiên cứu

2.1. Các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc ngườiMông

Dân tộc Mông thường cư trú ở vùng núi cao, giao thông khó khăn, với lối sống khép kín theo hình thức tự cấp tự túc, do vậy điều kiện sinh sống của đồng bào Mông đặc biệt khó khăn, cùng với đó phần đa người Mông đều không biết đọc, biết viết, khả năng giao lưu và hội nhập với bên ngoài còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp người Mông vẫn bảo lưu, trao truyền được các giá trị văn hóa truyền thống tộc người gần như nguyên vẹn. Các giá trị văn hóa của người Mông rất phong phú và đa dạng thể hiện trong các lĩnh vực văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa xã hội.

Văn hóa vật chất: Người Mông sử dụng lương thực chính là gạo tẻ. Gạo nếp chỉ được sử dụng trong các dịp lễ tết. Ngô, sắn được trồng chủ yếu phục vụ trong chăn nuôi. Thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày của họ rất đơn giản, ngoài cơm tẻ người ta chỉ cần một chút thức ăn theo kiểu “có gì ăn đấy”, các món ăn thường được chế biến theo kiểu luộc hoặc nấu canh. Dịp tết hoặc đám cưới có thêm bánh dày được làm từ gạo nếp nương do gia đình trồng. Do sống ở vùng núi cao nhiệt độ thấp nên người Mông ở Bắc Yên có thói quen nấu và uống rượu thóc. Nhìn chung có thể thấy, tập quán ăn uống của người Mông tương đối đơn giản. Do điều kiện kinh tế khó khăn lại ít có điều kiện giao lưu với bên ngoài do vậy tập tục ăn uống của người Mông vẫn không có nhiều thay đổi.

Nhà ở truyền thống của đồng bào người Mông huyện Bắc Yên thường là kiểu nhà trệt nền đất vách được dựng bằng các tấm gỗ lớn. Nhà thường được làm 3 gian, 2 chái với ưu điểm đông ấm, hè mát. Trong đó gian giữa bao giờ cũng rộng hơn 2 gian bên cạnh “bởi đây là gian trung tâm của ngôi nhà, nơi diễn ra các sinh hoạt của mỗi thành viên sinh sống trong đó, đặc biệt đây là nơi tổ chức cúng ma nhà vào các dịp lễ tết hay các nghi lễ liên quan đến chu kì đời người...”[2, tr299]. Trong nhà người ta đặt 2 bếp lửa ở hai bên đầu nhà, gian giữa đặt bàn thờ ma. Cột ma được dựng ở gian giữa của ngôi nhà gần đầu bếp chính. Xung quanh nhà người ta thường trồng một ít rau để phục vụ gia đình. Hiện nay hình thức nhà xây được lợp mái tôn cũng dần xuất hiện. Tuy nhiên người Mông vẫn sinh sống chủ yếu trong những ngôi nhà nền đất ván gỗ như trước.

Trang phục truyền thống của người Mông được làm từ vải lanh nhuộm chàm thêu hoa văn hoặc nhuộm sáp ong.Hiện nay phụ nữ và trẻ em gái chủ yếu vẫn mặc váy được trang trí sặc sỡ màu sắc, nam giới mặc quần ống rộng của người Mông kết hợp với áo sơ mi hoặc áo thun như của người Kinh. Nguyên liệu để làm váy áo được thay đổi từ vải lanh nhuộm chàm thành vải sợi công nghiệp.

Văn hóa xã hội: Người Mông thường sống tập trung thành các bản nhỏ, được bố trí theo lối mật tập. Trước đây, quy mô các bản của người Mông thường từ 10 - 20 hộ. Ngày nay, cùng với sự gia tăng về dân số và sự phát triển của kinh tế - xã hội, số hộ trong các bản đã tăng lên nhiều lần. Với quan điểm “cùng họ đều là anh em”, trong cuộc sống hàng ngày các gia đình thường tương trợ giúp đỡ nhau về mọi mặt. Bởi vậy khi gia đình có việc trọng đại như cưới xin, ma chay thì đó được coi là việc lớn của cả dòng họ và sẽ do anh em trong họ tổ chức giúp đỡ.

Gia đình của người Mông phổ biến là gia đình phụ hệ, thường có từ 2 đến 3 thế hệ cùng chung sống. Người đàn ông lớn tuổi nhất đóng vai trò trụ cột, đứng ra quản lý tài sản chung của gia đình, phân chia tài sản cho các con ra ở riêng, đồng thời đứng ra tổ chức, phân công lao động cho các thành viên còn lại và trực tiếp đảm nhiệm những công việc nặng nhọc nhất, nguy hiểm nhất trong sản xuất như chặt cây, đánh đá, khai phá nương rẫy, và đốn gỗ, vận chuyển từ rừng về nhà khi làm nhà mới… Họ còn là người lo toan việc tổ chức hôn lễ cho con cái, thờ cúng tổ tiên, các ma nhằm cầu mong sự phù hộ cho gia đình mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt. Về đối ngoại, họ còn thay mặt các thành viên trong gia đình giải quyết mọi quan hệ với dòng họ và xã hội. Có thể nói người đàn ông là chủ gia đình có vị trí cao trong gia đình và cả ngoài cộng đồng, mọi ý kiến của họ đều được các thành viên trong gia đình cho là sáng suốt và nghe theo. Người vợ, người mẹ phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng và gia đình nhà chồng. Một vài năm trở lại đây, đã có một số phụ nữ người Mông có cơ hội được học tập và làm việc ở các cơ quan nhà nước, hoặc tham gia hoạt động buôn bán ở chợ thị trấn hoặc mở cửa hàng ngay ở các bản, xã... Tuy số lượng này không nhiều nhưng những thay đổi trên đã thổi một luồng gió mới vào cuộc sống khép kín bao đời nay của người phụ nữ Mông giúp họ thay đổi nhận thức, nâng cao vị thế trong gia đình và ngoài xã hội, giúp cuộc sống của họ đỡ vất vả và trở nên đa sắc hơn. 

Văn hóa tinh thần: Người Mông có đời sống văn hoá tinh thần phong phú và đa dạng. Trong một năm, người Mông tổ chức rất nhiều nghi lễ mang đặc trưng văn hoá tộc người như lễ cúng cơm mới, lễ cúng tu su… được coi là dịp sinh hoạt văn hoá chung của anh em gia đình, dòng họ, tăng tính cố kết của cộng đồng. Đặc biệt vào dịp tết cổ truyền họ thường tổ chức nhiều hoạt động vui chơi mang tính cộng đồng như như ném pao, kéo co, thi thổi khèn… Hiện nay người Mông ở một số xã thuộc huyện Bắc Yên vẫn giữ tập quán ăn tết cổ truyền vào đầu tháng 12 âm lịch. Với người Mông, tết là dịp để nghỉ ngơi sau một năm lao động vất vả vì thế trong 3 ngày này họ kiêng không làm việc nặng, cả ngày sẽ uống rượu ăn thịt, hát ca và thăm hỏi anh em họ hàng. Hết 3 ngày tết họ lại tiếp tục các cuộc chơi xuân khắp các bản làng, tham gia vào các hoạt động văn hoá cộng đồng do bản tổ chức. Đây chính là dịp để các chàng trai cô gái làm quen, tìm hiểu lẫn nhau. Phần lớn các cặp đôi người Mông đều xuất phát từ những đám chơi hội này vì vậy họ quan niệm đây cũng chính là “mùa cưới” của đồng bào Mông.

Về mặt tín ngưỡng, người Mông cũng có quan điểm vạn vật hữu linh. Họ thờ cúng ma nhà, ma cửa, ma bếp, ma buồng, ma núi, ma rừng… đây là hệ thống các ma lành được người Mông thờ cúng để bảo vệ sức khoẻ và bình an của các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, họ cũng tin là có một loại ma dữ chuyên làm hại con người có thể sẽ gặp phải khi đi đường xa. Vì thế trước kia, khi gia đình có người chuẩn bị vào rừng hoặc đi làm ăn, học tập xa… người ta vẫn thường tổ chức lễ cúng cầu sức khoẻ, cầu mong nhận được sự bảo vệ của ma lành để mọi người tránh bị ma dữ quấy phá.

Nhìn chung, phần đông các gia đình người Mông ở huyện Bắc Yên vẫn thờ cúng tổ tiên theo truyền thống, tuy nhiên những năm gần đây cũng có một số gia đình đã cải đạo chuyển sang Tin lành. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc người Mông từ bỏ tôn giáo tín ngưỡng hàng trăm năm của mình để theo Tin lành là do gánh nặng về mặt kinh tế bởi các tập tục, các nghi lễ rườm rà, tốn kém. Trong khi đời sống người dân còn nhiều khó khăn thì chính những thủ tục, nghi lễ đó đã tạo nên sự ngột ngạt, đè nén trong tâm lí và trong đời sống kinh tế của người dân. Trong số đó, một bộ phận người Mông khát khao được giải phóng và họ tìm đến với Tin lành như một sự giải thoát. Tuy nhiên, trên con đường cải đạo đó phần lớn người dân đều tin theo một cách mù quáng. Họ xóa bỏ hoàn toàn văn hóa truyền thống mà cha ông đã gây dựng hàng trăm năm qua, từ đó cũng xóa đi những đặc trưng của văn hóa tộc người. Biến người Mông từ một tộc người có nhiều nét riêng, độc đáo thành tộc người bị đồng hóa về văn hóa cũng như mọi mặt của đời sống xã hội [3, tr 30].

Tập quán chu kỳ đời người bao gồm sinh đẻ, hôn nhân và tang ma. Cho đến nay người Mông ở huyện Bắc Yên vẫn gìn giữ được nhiều nét văn hóa độc đáo trong các tập quán liên quan đến chu kỳ đời người thể hiện qua các nghi lễ, các bài ca, làn điệu đối đáp... vẫn được truyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác.

2.2. Giải pháp giáo dục, nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ người Mông ở huyện Bắc Yên trong bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống tộc người

Ngày nay cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, đời sống của đồng bào người Mông dần được cải thiện, thế hệ trẻ cónhiềucơ hội được giao lưu, học tập, làm việc tại các thành phố lớn. Bên cạnh đó dưới ảnh hưởng của quá trình giao lưu và hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế đã mở ra cơ hội cho người Mông nói chung và thế hệ trẻ nói riêng được nâng cao tầm nhìn, tiếp thu tinh hoa của các tộc người khác, làm phong phú thêm đời sống văn hóa, tinh thần của chính tộc người mình. Mặt khác đây cũng là khó khăn, thách thức cho sự phát triển của văn hóa bản thân mỗi tộc người trong việc giữ vững những giá trị văn hoá mang tính bản sắc.

Thế hệ trẻ được xác định là những người kế cận có vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mỗi tộc người nói riêng và văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung. Họ là những người được thụ hưởng nhiều giá trị của văn hóa, đồng thời là những người có khả năng sáng tạo lớn nhất, tiềm năng nhất, đông đảo nhất tạo ra những sản phẩm văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc... Thế hệ trẻ sẽ dễ bị mất phương hướng nếu không có bản lĩnh, thái độ, trình độ văn hóa cần thiết [4].Bởi vậy việc giáo dục và nâng cao nhận thức cho thế hệ trẻ trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tộc người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả xin kiến nghị một số giải pháp như sau:

2.2.1. Về mặt đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước

Đảng và Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa chính sách dân tộc, có những cơ chế chính sách đặc thù về phát triển kinh tế - văn hóa - giáo dục dành riêng cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Có chính sách và biện pháp nhằm khuyến khích người dân gìn giữ và phát huy các hoạt động văn hóa thể thao đặc sắc tộc người như các trò chơi dân gian tung còn, ném pao, kéo co... các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong sinh hoạt cộng đồng các dịp lễ tết. Tuy nhiên, cần phải có những điều tra thực tế, tôn trọng tiếng nói của chủ thế văn hóa trong đề xuất và ban hành chính sách dân tộc đảm bảo tình thiết thực và phù hợp với phong tục tập quán của đồng bào.     

2.2.2. Đối với chính quyền địa phương và các đơn vị đoàn thể

Cần tăng cường biện pháp tuyên truyền, giáo dục để người dân nhận thức về tầm quan trọng của việc gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống tộc người trước xu thế phát triển hiện nay.

Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng cần nghiên cứu, đề xuất giải pháp phục dựng các làng nghề thủ công truyền thống như nghề rèn, nghề thêu thủ công, nghề nấu rượu... biến chúng thành sản phẩm du lịch một mặt giúp người dân tăng thu nhập, mặt khác đây sẽ là cơ hội trao truyền tinh hoa văn hóa tộc người giữa thế hệ các nghệ nhân đối với thế hệ trẻ từ đó góp phần gìn giữ và phát huy nét văn hóa độc đáo của tộc người.

2.2.3. Đối với các cơ quan chuyên môn

Các đơn vị chuyên môn như Bảo tàng, Phòng - Sở văn hóa, Viện nghiên cứu Văn hóa, Ủy ban dân tộc... cần có kế hoạch và những chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu chuyên sâu về phong tục tập quán của người Mông để có thể giới thiệu rộng rãi các nét đẹp văn hóa của đồng bào tới các vùng miền trong và ngoài nước, cũng như thúc đẩy sự hiểu biết và giao lưu văn hóa giữa các tộc người.

Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế được nâng lên, đời sống văn hóa của đồng bào cũng được chú trọng, nhiều hộ gia đình đã mua được ti vi, đài các-sét để theo dõi các chương trình phát thanh và truyền hình. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các chương trình được người Mông theo dõi đều là các chương trình được thu và phát ở ngoại quốc (chương trình của Lào, Mỹ) do vậy, nhà nước ta cần chú trọng đầu tư xây dựng các chương trình thông tin truyền thông, các băng đĩa nhạc, ấn phẩm văn hóa... bằng tiếng Mông để hạn chế việc người dân xem các chương trình từ đài nước ngoài từ đó làm giảm các nguy cơ tiềm ẩn về an ninh chính trị đất nước.

2.2.4. Nhà trường với nội dung giáo dục về văn hóa tộc người

Thế hệ trẻ chính là chủ thể thay đổi văn hóa tộc người. Sự biến đổi đó tích cực, đúng hướng hay không phụ thuộc vào trình độ hiểu biết. Bởi vậy để bảo lưu và phát triển các nét đẹp văn hóa tộc người thiết nghĩ cần thiết phải đưa vào chương trình học của một số môn như giáo dục công dân,... hoặc tổ chức các buổi ngoại khóa nhằm tuyên truyền, chỉ ra cho học sinh thấy được các nét đẹp văn hóa đáng tự hào của dân tộc... kể cả những lạc hậu, hạn chế còn tồn tại từ đó giáo dục và vun đắp tình yêu văn hóa dân tộc cho chính bản thân các thế hệ học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.

2.2.5. Đối với gia đình, dòng họ người Mông

Tính cố kết cộng đồng của người Mông đặc biệt bền chặt. Gia đình, dòng họ có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình trưởng thành và tình yêu đối với văn hóa tộc người của mỗi cá nhân. Do đó, bản thân mỗi gia đình, dòng họ, đặc biệt là bản thân người chủ gia đình, trưởng họ...cần nâng cao nhận thức, chú trọng trong việc giáo dục, nâng cao nhận thức cho con em mình về các giá trị văn hóa tộc người và cách thức thực hành nghi lễ trong các dịp lễ, tết do gia đình, dòng họ tổ chức.

  1. Kết luận

Có thể nhận thấy, trước xu thế hội nhập và quốc tế hoá hiện nay, vấn đề bảo lưu và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống tộc người đang đặt ra một cách cấp thiết. Bảo lưu những gì và phát huy những yếu tố như thế nào cần phải được nhìn nhận và lắng nghe ý kiến từ chủ thể văn hóa là tộc người Mông. Bảo lưu và phát triển phải đảm bảo vừa không làm mất đi bản sắc văn hóa tộc người, đồng thời vẫn phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Văn hóa không phải là cái bất biến, do đó muốn bảo tồn và phát huy được các giá trị văn hóa tộc người đòi hỏi cần phải có sự vào cuộc và phối hợp của các cấp chính quyền, các cơ quan nghiên cứu, đặc biệt là người dân địa phương. Chính vì thế cần phải có giải pháp cụ thể nhằm nâng cao nhận thức và tinh thần tự hào về các giá trị văn hoá bản sắc trong cộng đồng tộc người Mông. Từ đó, khuyến khích người dân bảo tồn các yếu tố văn hoá tốt đẹp ngay từ trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên trong quá trình đó cũng cần đảm bảo tính toàn diện, hợp xu thế phát triển của thời đại nhằm hướng tới mục tiêu bảo lưu và phát triển theo dòng chảy của thời đại mới.

      Tài liệu tham khảo

[1]. Cổng thông tin điện tử huyện Bắc Yên - tỉnh Sơn La, “Vị trí địa lý - Địa hình - Dân số, tiềm năng phát triển của huyện Bắc Yên”, nguồn: https://bacyen.sonla.gov.vn/1304/31707/63543/581009/vi-tri-dia-ly/vi-tri-dia-ly-dia-hinh-dan-so-tiem-nang-phat-trien-cua-huyen-bac-yen, ngày truy cập: 03/02/2023.

[2]. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La (2020), Địa chí Sơn La, quyển 1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

[3]. Nguyễn Thị Huyền (2019), Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa, huyện Bắc yên, tỉnh Sơn La, Luận văn Thạc sĩ Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

[4]. Bích Ngọc - Nghĩa Đức - Phạm Thắng, Vai trò của tuổi trẻ Việt Nam trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay, nguồn: https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=71598, ngày truy cập 29/3/2023.

[5]. Cư Hòa Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

[7]. Nguyễn Hoàng Yến, Trần Hạnh Nguyên, An Thị Hồng Hoa (2016) Văn hóa lễ hội của người Mông: Truyền thống và biến đổi, Ðề tài cấp cơ sở năm 2015 - 2016, Trường Ðại học Tây Bắc.