QUAN ĐIỂM THƯƠNG DÂN

TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 

                                     PGS.TS. Phạm Văn Lực

                                     Giám đốc TTNCVH các dân tộc Tây Tắc

 

Toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho Đảng, cho dân. Quan điểm thương dân của Ch tịch H Chí Minh là: càng thương yêu nhân dân bao nhiêu thì càng mong muốn, càng khao khát nhân dân phải được tự do, hạnh phúc, thoát khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…

Ngay từ khi bước chân ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc ngày 5.6.1911, Người đã có tham vọng là đi sang phương Tây “để xem xem họ làm như thế nào mà nhân dân họ được tự do, được bình đẳng, bắc ái” để về làm cho nhân dân ta cũng được tự do, bình bẳng, bắc ái.

Trong suốt quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, khát vọng cháy bỏng và lớn lao nhất của Người là: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi đó là tất cả những gì tôi muốn, tất cả những gì tôi cần”. Với khát vọng cháy bỏng đó, Người đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và đã tìm ra con đường cứu nước giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam đó là đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười và Chủ nghĩa Lê nin (1920). Cũng chính Người đã truyền bá con đường cứu nước đó về với dân tộc Việt Nam, chuẩn bị cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra cho dân tộc ta kỷ nguyên phát triển mới: Tự do, Độc lập và Chủ nghĩa xã hội.

Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Người nói: “cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc đó là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành

Với tư tưởng thương dân, tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta phải đặc biệt trọng dân, thương dân, “tin tưởng mãnh liệt” vào nhân dân. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:

Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra các trách nhiệm to lớn của Đảng với nhân dân là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Là một nhà chiến lược thiên tài, nắm vững quy luật và cục diện của cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhất định sẽ thắng lợi. Trong thời điểm viết Di chúc, dù khẳng định cuộc kháng chiến “còn kéo dài”, Hồ Chí Minh đã nhìn xa đến các nhiệm vụ sau khi kháng chiến thắng lợi. Trong Di chúc của Người căn dặn các công việc phải làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành được thắng lợi, đó là:

Công việc đầu tiên mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải ra sức làm là hàn gắn vết thương chiến tranh nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra”. Theo Người, đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Người đề nghị Đảng ta phải “có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.

Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, theo Hồ Chí Minh, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Người khẳng định, “Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Với niềm tin tưởng tuyệt đối vào nhân dân, vào con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Người căn dặn Đảng và Nhà nước phải quan tâm tới mọi đối tượng trong xã hội, không quên bất cứ ai. Sự quan tâm của Người thể hiện tình thương yêu bao la của Người với mọi tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh dặn lại:

Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.

Với những người trẻ tuổi tham gia bộ đội, thanh niên xung phong là những người đã được rèn luyện trong chiến đấu, có lòng dũng cảm và tương lai của họ còn dài, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cử họ đi học thêm các ngành, các nghề, đào tạo họ thành những người có chuyên môn giỏi, có tư tưởng tốt và lập trường vững chắc. Người cho rằng, họ sẽ là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta phải tiếp tục thực hiện sự nghiệp “giải phóng phụ nữ”. Người đánh giá cao công lao của phụ nữ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đất nước hoà bình, cần thực hiện hai điều để tiếp tục “giải phóng” phụ nữ:

- Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ phụ nữ, để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả việc lãnh đạo.

- Đồng thời, bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên.

Theo Người, thực hiện được hai điều này là “một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.

Với nông dân, lực lượng cách mạng đông đảo nhất, Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân nước ta luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta. Trong cách mạng cũng như trong kháng chiến, nông dân ta ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người đề nghị Chính phủ, khi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng hãy “miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”.

Với những người trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... Hồ Chí Minh coi đó là nạn nhân của chế độ xã hội cũ. Bởi vậy, Nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là những nhiệm vụ phải thực hiện sau chiến tranh; là những công việc rất to lớn, nặng nề, phức tạp, nhưng cũng rất vẻ vang. Theo Người, công việc này là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người nhắn nhủ, để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu này phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại chính là nhân dân.

Có thể nói, tư tưởng trọng dân, thương dân, “tin tưởng mãnh liệt” vào nhân dân là một trong những tư tưởng vĩ đại trong Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh và toàn bộ bản Di chúc của Người đối với dân tộc Việt Nam và nhân loại là hết sức cao cả, vĩnh hằng và định hướng tương lai.