Cách đây vừa tròn 60 năm, vào những ngày cuối tháng 1/1962 chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Dần, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng cùng đoàn công tác thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đã tới thăm Khu Tự trị Thái - Mèo. Cùng đi với Thủ tướng có đồng chí Nguyễn Tạo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp và một số cán bộ của các bộ, ngành và cơ quan Trung ương.
Tại Sân bay Điện Biên Phủ, đồng chí Lê Trung Đình - Bí thư Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Cầm Ngoan - Quyền Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu Tự trị Thái - Mèo, Thiếu tướng Bằng Giang - Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, cùng các đồng chí đại diện Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Khu Tự trị Thái - Mèo và châu Điện Biên đã ra sân bay đón chào Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng các đồng chí trong đoàn công tác. Thủ tướng đã đến đặt vòng hoa viếng mộ các liệt sĩ hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, thăm đồi A1, thăm hợp tác xã Nà Nưa, Nông trường Điện Biên và nói chuyện với cán bộ, bộ đội Điện Biên Phủ.
Trên đường đi Tuần Giáo, Mường Lay, Thủ tướng ghé thăm Công trường 426, thăm hợp tác xã khai hoang của đồng bào huyện Thụy Anh (Thái Bình). Tại Mường Lay, Thủ tướng đã đi thăm cửa hàng mậu dịch, đến xem mô hình sản xuất ép mía, thái sắn bằng sức nước của hợp tác xã Hoa - Việt và nói chuyện với cán bộ, bộ đội, nhân dân châu Mường Lay. Trên đường về Sơn La, Thủ tướng đã nghỉ lại Tuần Giáo, gặp gỡ các cán bộ, chiến sĩ thi đua của châu. Thủ tướng đã tới thăm hợp tác xã khai hoang Bình Thuận của đồng bào tỉnh Thái Bình, nói chuyện với cán bộ, nhân viên châu Thuận và các cơ quan, xí nghiệp của Khu.
Tại Thị xã Sơn La (thành lập tháng 10/1961), trung tâm Khu Tự trị Thái - Mèo, gần 5.000 đồng bào, cán bộ, bộ đội, công an nhân dân vũ trang và đại biểu nhân dân 18 châu trong Khu Tự trị đã tổ chức mít tinh chào mừng Thủ tướng cùng các đồng chí trong đoàn công tác. Phát biểu tại buổi mít tinh, Thủ tướng đã chuyển đến đồng bào các dân tộc Tây Bắc lời thăm hỏi thân ái của Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh; căn dặn mọi người tăng cường đoàn kết, làm tốt hơn nữa công tác sản xuất, học tập văn hóa, để góp phần mau chóng xây dựng miền Tây Bắc thành hòn ngọc quý của nước ta. Thủ tướng nhấn mạnh những nhiệm vụ Khu Tự trị Thái - Mèo cần tập trung thực hiện, bao gồm:
“- Phát triển nông nghiệp một cách mạnh mẽ và toàn diện. Đó là nhiệm vụ rất chủ yếu.
- Phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp địa phương.
- Đẩy mạnh công tác lâm nghiệp như khai thác bảo vệ và trồng cây gây rừng (cấm phá rừng).
- Phát triển giao thông vận tải, tài chính, ngân hàng và mậu dịch (đặc biệt là đường sông).
- Đẩy mạnh công tác tư tưởng, giáo dục, văn hóa và y tế.
- Tăng cường công tác giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ biên giới.
- Tích cực đào tạo cán bộ, cải tiến tổ chức biên chế và lề lối làm việc” [5].
Thay mặt Khu ủy Tây Bắc và chính quyền Khu Tự trị Thái - Mèo, đồng chí Cầm Ngoan - Quyền Chủ tịch Ủy ban Hành chính Khu phát biểu chào mừng, báo cáo những thành tích của Khu đã đạt được trong những năm qua với Thủ tướng và các thành viên trong đoàn, khẳng định lời hứa quyết tâm:
“- Ra sức củng cố và phát triển phong trào hợp tác xã, nông trường quốc doanh tiến lên mạnh mẽ và vững chắc, đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp địa phương và công nghiệp, mở mang đường xá, đồng thời phát triển và xây dựng các mặt về kinh tế và văn hóa khác, đảm bảo thực hiện kế hoạch năm 1962 thắng lợi vượt mức và toàn diện.
- Tăng cường đoàn kết dân tộc một cách thiết thực hơn nữa, tích cực củng cố cơ sở, giữ gìn trật tự trị an bảo vệ sản xuất, bảo vệ bản mường và bảo vệ biên cương của Tổ quốc, đồng thời đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện từng bước tiến kịp, từng mặt tiến vượt miền xuôi, hòa với miền Bắc tiến đều lên chủ nghĩa xã hội” [3].
Sau buổi mít tinh, Thủ tướng đã đến xem triển lãm tiểu thủ công nghiệp của Khu. Trên đường về Hà Nội, Thủ tướng đã ghé thăm hợp tác xã khai hoang Hoàng Văn Thụ của đồng bào tỉnh Hưng Yên tại châu Mai Sơn. Thủ tướng cũng đã đến xem nơi trồng bông thí nghiệm của Sở Nông nghiệp Khu; thăm khu vực trồng chè, chăn cừu của Nông trường Mộc Châu; thăm một đơn vị bộ đội và nói chuyện với cán bộ, công nhân viên châu Mộc.
Trong thời gian 5 ngày ở Tây Bắc, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cùng các đồng chí trong đoàn công tác đã đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ, nhân dân các châu Điện Biên, Mường Lay, Tuần Giáo, Thuận Châu, Yên Châu, Mộc Châu, Thị xã Sơn La. Ở các châu, đoàn công tác đã đến thăm một số hợp tác xã địa phương, hợp tác xã khai hoang, nông trường, công trường, cơ quan, trường học… Đến đâu, đoàn cũng nhận được sự đón tiếp rất nồng nhiệt của cán bộ, bộ đội và nhân dân các dân tộc. Thủ tướng cùng các đồng chí trong đoàn cũng đã dự bữa cơm thân mật với các đại biểu, cán bộ, chiến sĩ thi đua ở Điện Biên, Mường Lay, Tuần Giáo và Thị xã Sơn La.
Kết thúc chuyến thăm, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã gửi thư chào mừng và chúc Tết nhân dân các dân tộc Khu Tự trị Thái - Mèo. Trong thư, Thủ tướng bày tỏ: “Qua cuộc đi thăm này, tôi rất vui mừng phấn khởi vì hai lẽ: Thứ nhất, là tôi đã có dịp bày tỏ nhiệt tình thắm thiết và lòng yêu mến của Trung ương Đảng, của Chính phủ và của đồng bào cả nước đối với đồng bào khu Tây Bắc. Thứ hai, là vì tôi được thấy rõ tình hình Tây Bắc thật đúng như Trung ương Đảng và Chính phủ đã nhận định: Đất đai, rừng núi, sông ngòi khu Tây Bắc có rất nhiều của cải thiên nhiên. Đồng bào Tây Bắc giầu lòng yêu nước, giầu tinh thần cách mạng và có nhiều tài năng xây dựng đời sống mới” [4]. Thủ tướng bày tỏ tin tưởng và hy vọng nếu như biết khai thác và phát huy tốt hơn nữa tiềm năng phong phú của mình thì Khu Tự trị Thái - Mèo “sẽ trở nên một vùng rất giầu và rất đẹp, quý báu như một hòn ngọc của nước Việt Nam ta” [4]. Để làm được điều đó, Thủ tướng căn dặn các cấp ủy Đảng, chính quyền và đồng bào các dân tộc Khu Tự trị phải thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa và chính sách dân tộc. Trong nông nghiệp, phải ra sức sản xuất nhiều lúa, ngô, khoai, sắn để đủ ăn, có dự trữ và có thêm nhiều lương thực bán cho Nhà nước; tất cả các bản, các xã đều phải chăm lo trồng cây công nghiệp; phải đẩy mạnh việc chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, vịt; phải chăm sóc trâu, bò cho béo tốt và sử dụng trâu, bò nhiều hơn. Đến thăm triển lãm tiểu thủ công nghiệp của Khu và một số cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn, Thủ tướng khẳng định đồng bào Khu Tự trị biết nhiều nghề, làm được nhiều thứ hàng đẹp và tốt như các loại nông cụ, các loại vải, đồ đan, đồ gỗ, đồ sành, v.v… Thủ tướng khuyến khích đồng bào các dân tộc “hãy ra sức phát triển các nghề đó và làm thêm nhiều nghề khác”, đồng thời giao nhiệm vụ: “Khu Tự trị Thái - Mèo phải cố gắng tự cung cấp một phần ngày càng lớn về hàng tiêu dùng và các thứ nông cụ cải tiến” [4]. Về văn hóa, Thủ tướng căn dặn: “Mọi người đều phải chăm học. Ai chưa biết chữ phải cố học để đọc thông viết thạo. Ai đã biết chữ phải cố học để mỗi năm lên được một lớp. Các cán bộ và thanh niên phải gương mẫu trong việc học. Phải gắng sao cho mỗi xã đều có trường cấp 1, mỗi châu đều có trường cấp 2, rồi cấp 3… Tất cả các xã, các bản đều phải giữ đúng vệ sinh và ra sức tiêu diệt bệnh sốt rét” [4]. Đặc biệt, Thủ tướng bày tỏ vui mừng trước những thành tích đạt được của các hợp tác xã khai hoang: “Tôi có đến thăm một số hợp tác xã của đồng bào Thái Bình và Hưng Yên lên khai hoang. Tôi rất vui mừng thấy rằng đồng bào Khu Tự trị Thái - Mèo và đồng bào ở miền xuôi lên đã đoàn kết thân ái với nhau, hết lòng giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà, nhờ vậy mà các hợp tác xã khai hoang đã thu được kết quả tốt bước đầu. Đồng bào các dân tộc ở Tây Bắc hãy chuẩn bị đón thêm nhiều đoàn anh em bà con ở miền xuôi lên, để cùng nhau sát cánh xây dựng Khu Tự trị Thái - Mèo xã hội chủ nghĩa” [4]. Thủ tướng mong muốn Khu Tự trị Thái - Mèo thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước thông qua việc hướng ứng và tổ chức cuộc vận động đồng bào miền xuôi tham gia phát triển kinh tế miền núi.
Bên cạnh tình cảm vui mừng, phấn khởi trước những thành tích, đổi thay tích cực trên vùng đất Tây Bắc, Thủ tướng cũng bày tỏ những trăn trở, băn khoăn trước thực trạng phá rừng bừa bãi và hệ thống giao thông còn nhiều yếu kém của Khu Tự trị. Thủ tướng nhắn nhủ: “Rừng là của quý của khu Tây Bắc và của cả nước ta. Ở Khu Tây Bắc nhiều rừng bị đốt phá, đồi núi trơ trọi, đó là điều không tốt. Đồng bào phải hết sức giữ gìn rừng. Đẵn gỗ và đốt nương phải theo sự hướng dẫn của cán bộ trông nom về rừng. Vừa đẵn gỗ, vừa phải ra sức trồng cây” [4]. Về giao thông vận tải, Thủ tướng không hài lòng khi thấy những đoạn đường số 6 hiện đang chưa được tốt. Thủ tướng nhắc nhở cán bộ giao thông tránh mọi lãng phí về tiền của, sử dụng hợp lý khả năng của máy móc và nhân lực trên các công trường cầu đường hiện nay. “Không nên để tình trạng xây dựng nhà ở của công trường thì rất tốt đẹp, tốn hàng vạn đồng trong khi đó đường xe thì đá lổm chổm như trên dọc đường Tuần Giáo - Mường Lay” [6].
Một điều cần nhấn mạnh là ngay từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, miền Bắc còn nghèo nàn, lạc hậu, vừa mới bắt tay thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) để bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội; ở miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn đang diễn ra quyết liệt, nhưng với tầm nhìn chiến lược, Thủ tướng đã nhận rõ những tiềm năng to lớn của Tây Bắc và một tương lai tươi sáng đang đón chờ Tây Bắc ở phía trước. Đặc biệt, Thủ tướng đã chỉ ra những hình ảnh hết sức cụ thể của miền đất Tây Bắc trong tương lai, đó là: trong văn hóa “Phải tiến đến mở trường Đại học ở khu” [4]; và trong kinh tế “Khối nước sông Đà, gần một nửa khối nước sông Hồng, rồi đây sẽ không còn là nguồn thủy tai để trở nên nguồn thủy lợi và sức điện. Tây Bắc sẽ biến thành một vùng công nghiệp quan trọng của nước ta” [7]. Bốn thập kỷ sau những lời khẳng định đó, vào những năm đầu thế kỷ XXI, Trường Đại học Tây Bắc thành lập theo Quyết định số 39/2001/QĐ-TTG ngày 23/3/2001 của Thủ tướng Chính phủ và Nhà máy Thủy điện Sơn La chính thức được khởi công ngày 02/12/2005 là những công trình hiện thực hóa những nét phác họa về một bức tranh Tây Bắc hiện đại trong tương lai của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Sau chuyến thăm Khu Tự trị Thái - Mèo không lâu, trong bài viết “Bài ca Tây Bắc” gửi đăng trên Báo Tây Bắc, số 274, ra ngày 20/2/1962, Thủ tướng một lần nữa nhấn mạnh: “Tây Bắc, một hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc đang chờ đợi chúng ta, thúc giục chúng ta. Sức lực của đồng bào Tây Bắc, sức lực của nhân dân ta hãy mau chóng khai thác tài nguyên phong phú của Tây Bắc để xây dựng đời sống mới ở Tây Bắc, góp phần xây dựng đời sống mới ở miền Bắc nước ta” [7]. Cùng với đó, Thủ tướng đã gửi tặng hợp tác xã khai hoang Bình Thuận (Thuận Châu) một chiếc ô tô làm phương tiện vận chuyển. Đây là chiếc ô tô mà Thủ tướng nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành tặng cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Đó là kỷ vật vô cùng giá trị, có ý nghĩa động viên to lớn, khẳng định sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với công cuộc khai hoang, phát triển kinh tế miền núi nói riêng, cũng như đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Tây Bắc nói chung.
Sáu mươi năm đã trôi qua kể từ ngày Thủ tướng Phạm Văn Đồng và đoàn công tác của Trung ương lên thăm Khu Tự trị Thái - Mèo, miền đất Tây Bắc hôm nay đang thay da đổi thịt, từng bước hiện thực hóa những mong muốn và tin tưởng của Thủ tướng về một trong những hòn ngọc của Tổ quốc Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngày 27/4/2022, tại Hội trường Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sơn La đã tổ chức Hội thảo tham vấn dự án “Thúc đẩy quản lý hiệu quả các khu rừng cộng đồng gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sơn La chủ trì với kinh phí của tổ chức GEFSGP Việt Nam (Quỹ Môi trường toàn cầu Việt Nam - Chương trình tài trợ các dự án nhỏ của GEF thực hiện bởi UNDP).
Đây là Dự án với lĩnh vực trọng tâm là bảo tồn đa dạng sinh học các khu rừng cộng đồng gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể các dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La. Dự án nhằm hướng tới các mục tiêu: (1) Nâng cao nhận thức của người dân và cộng đồng ở các xã vùng dự án về quản lý bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học; Xây dựng bộ quy ước quản lý, sử dụng hiệu quả tiền dịch vụ môi trường rừng cho quản lý, bảo vệ rừng và nâng cao sinh kế cho người dân. (2) Thúc đẩy cộng đồng quản lý hiệu quả các khu rừng cộng đồng và lưu giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của cộng đồng liên quan đến bảo vệ rừng và văn hóa dân tộc thiểu số.
Hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia đến từ các Viện, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, đại diện UBND tỉnh Sơn La; Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sơn La; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sơn La; Hiệp hội Du lịch tỉnh Sơn La; đại diện các xã trong vùng dự án (xã Long Hẹ (huyện Thuận Châu); xã Suối Bàng (huyện Vân Hồ); xã Mường Sang (huyện Mộc Châu); xã Ngọc Chiến (huyện Mường La)); Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La; Quỹ bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Sơn La; Trung tâm Khoa học Lâm nghiệp Tây Bắc, Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa các Dân tộc Tây Bắc… cùng các đơn vị báo đài đưa tin về Hội thảo.
Hội thảo đã nhận được rất nhiều ý kiến quan tâm đóng góp của các bên liên quan đến Dự án, đặc biệt là ý kiến của các chuyên gia về lĩnh vực bảo vệ rừng gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La; nhấn mạnh việc bảo vệ rừng, sử dụng đúng và có hiệu quả nguồn quỹ dịch vụ môi trường rừng tại các xã vùng dự án gắn với khai thác hiệu quả vốn rừng với phát triển du lịch sinh thái, du lịch xanh, du lịch bền vững…
Dự án được đưa vào thực hiện sẽ góp phần to lớn vào việc bảo vệ đa dạng sinh học các khu rừng đặc dụng, tạo mạng lưới học hỏi, trao đổi kinh nghiệm quản lý bảo vệ rừng gắn với bảo tồn các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La với phát triển du lịch bền vững tại địa phương; giới thiệu, quảng bá được các giá trị văn hóa và du lịch của địa phương tới đông đảo người dân trong nước và quốc tế.
Nói chung, không có những quy tắc tuyệt đối trong phương pháp nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu khoa học. Các quy tắc này có thể thay đổi tuỳ chuyên ngành, tuỳ cấp độ nghiên cứu cũng như tuỳ người hướng dẫn hoặc chịu trách nhiệm khoa học của đề tài. Mỗi nhà khoa học lại chịu những áp lực hành chính, quy định chuyên môn và thói quen nghiên cứu trong đơn vị và chuyên ngành của mình.
Có thể nói, quá trình hội nhập kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở Sơn La đã ít nhiều tác động tới văn hóa các dân tộc nói chung và văn hóa dân tộc Thái nói riêng. Dưới tác động của hội nhập, các giá trị văn hóa truyền thống mang bản sắc văn hóa dân tộc như tiếng nói, chữ viết, trang phục, nhà cửa, ẩm thực, văn học nghệ thuật, tín ngưỡng truyền thống…của người Thái đã có nhiều biến đổi, nhiều khía cạnh bị mất đi và xuất hiện nhiều nhân tố mới thay thế truyền thống, hoặc bổ sung, làm giàu thêm truyền thống.
Về tiếng nói, chữ viết
Trong những loại hình di sản văn hóa phi vật thể, tiếng nói chữ viết là những giá trị văn hóa riêng vốn có. Dân tộc Thái có chữ viết từ thế kỷ thứ VI, theo hệ chữ Pali của Ấn Độ, thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Chữ Thái tương đối thống nhất giữa các vùng của người Thái, có khác nhau chỉ là những ký hiệu riêng của từng địa phương, ghi theo âm của địa phương mình. Hiện nay, trong Bảo tàng tỉnh và Thư viện tỉnh còn lưu giữ hơn 1.400 cuốn sách chữ Thái cổ được viết trên giấy dó, dướng. Ngoài ra, ở trong dân cũng còn một số sách chữ Thái cổ đang được lưu giữ. Sách chữ Thái cổ có nhiều thể loại: văn học, lịch sử, răn dạy con người, tín ngưỡng…. Tại các bản có một số người biết viết, đọc và dịch những cuốn sách chữ Thái cổ, trong đó có cả phụ nữ. Tuy nhiên, số lượng không nhiều vì trước đây không phải ai cũng được học chữ, hình thức học không được tổ chức theo lớp mà chủ yếu trong gia đình tự dạy nhau, không có giáo trình.10 năm trở lại đây, các Trường CĐ, Trung tâm Giáo dục thường xuyên của Tỉnh và gần đây nhất là Trường Đại học Tây Bắc đã thực hiện việc mở các lớp đào tạo tiếng, chữ Thái – góp phần không nhỏ vào việc khôi phục và duy trì vốn tiếng, chữ Thái cho đồng bào dân tộc Thái nói riêng và các dân tộc khác quan tâm đến ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc này. Theo kết quả kiểm kê, đối với những bản ở các huyện, vùng sâu, vùng xa thì có đến 90-100% số dân trong bản biết và vẫn nói tiếng Thái, tuy nhiên, một số bản gần thị trấn, thành phố, một số người đi công tác, là công chức nhà nước, hôn nhân khác tộc nên ở thế hệ con cái một số người không biết nói tiếng Thái.
Hiện nay, việc sử dụng song ngữ Kinh – Thái trong các gia đình và cộng đồng ngày càng phổ biến. Song ngữ đã thâm nhập vào hầu hết các lửa tuổi, các mối quan hệ trong gia đình : từ vợ/chồng, bố mẹ/con cái, ông bà/chá và giữa anh chị em. Song ngữ ngày càng phổ biến trong quan hệ với đồng tộc. Việc sử dụng tiếng Kinh trong gia đình và trong môi trường cộng đồng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Đặc biệt, sự chuyển đổi ngôn ngữ diễn ra chủ yếu ở nhiều thanh thiếu niên khi môi trường tiếp xúc của họ hàng ngày chủ yếu là tiếng Kinh. Họ sử dụng tiếng Kinh là chủ yếu để biểu đạt tâm tư – tình cảm.
Về trang phục
Trang phục là một trong những yếu tố dễ nhận biết đến đặc điểm và bản sắc tộc người nhưng cũng lại là yếu tố có nhiều biến đổi. Trang phục truyền thống của người Thái may bằng vải sợi bông, nhuộm chàm: nam giới mặc quần may theo lối chân què, áo xẻ ngực, khăn màu đen; ngày lễ, tết, cưới họ mặc áo dài màu đen giống như áo dài của đàn ông dân tộc Kinh, khăn dài màu đen. Phụ nữ mặc áo cóm, may theo lối xẻ ngực, đính hàng cúc bạc hình các con côn trùng hoặc hoa lá: bướm, ve sầu, nhện, lá sắn...áo bó sát thân, váy dài màu đen (phụ nữ Thái đen may cổ áo cao, ôm khít cổ, đội khăn Piêu; phụ nữ Thái trắng may áo cổ thấp, hình trái tim; ngoài ra, Sơn La còn có các nhóm Thái địa phương cũng có đôi chút khác biệt về trang phục phụ nữ). Ngày lễ, tết, cưới phụ nữ Thái trắng mặc áo dài may theo lối chui đầu, phụ nữ Thái đen mặc áo dài may theo lối xẻ nách, cài cúc cạnh. Người Thái có trang phục tang ma, thầy mo riêng.
Tuy nhiên, hiện nay các loại trang phục được bảo tồn chủ yếu là trang phục phụ nữ, bảo tồn chủ yếu về kiểu dáng và cách thức cắt may, còn vải đã dùng vải công nghiệp là chủ yếu, chỉ trang phục tang ma còn bảo tồn đậm nét. Dưới tác động của quá trình giao lưu văn hóa, sự hội nhập văn hóa, trang phục truyền thống đang dần bị mai một. Việc sử dụng trang phục truyền thống hiện nay chủ yếu chỉ còn ở phụ nữ trung niên và người già, tuy nhiên, chất liệu và nhiều yếu tố truyền thống của bộ trang phục đã bị thay đổi. Hiện nay, ngày thường chỉ có khoảng 20-30 % phụ nữ mặc trang phục truyền thống; trong những dịp lễ, tết có khoảng 70-80% phụ nữ mặc trang phục truyền thống. Y phục còn được bảo tồn, tuy nhiên mức độ bảo tồn đậm, nhạt ở từng địa phương khác nhau; y phục của phụ nữ, y phục ngày thường được bảo tồn đậm nét hơn. Xu hướng dùng y phục ngày thường được được cắt may bằng chất liệu, màu sắc đẹp được dùng như y phục lễ hội ngày càng tăng. Y phục được bảo tồn về kiểu dáng, còn chất liệu đã được dùng hầu hết bằng chất liệu công nghiệp. Y phục nam chỉ còn rất ít, chỉ chiếm khoảng 5-10% dân số trong một bản sử dụng. Người Thái vẫn ưa dùng nhiều đồ trang sức, trước đây chủ yếu làm bằng bạc và hợp kim tổng hợp, ngày nay xu hướng dùng vàng làm đồ trang sức ngày càng tăng. Trang phục tang ma còn bảo tồn đậm nét.. Ở thành phố, do nhận thức được vẻ đẹp của trang phục truyền thống nên trang phục dân tộc Thái đã và đang được bảo tồn khá tốt. Một số vùng khác có sự vào cuộc của chính quyền, đưa vào hương ước của bản để quy định mặc trang phục truyền thống.
Về nhà cửa truyền thống
Người Thái ở nhà sàn, nhà của người Thái trắng có 4 mái phẳng; nhà của người Thái đen mái khum hình mui rùa, trên nóc nhà thường trang trí khau cút. Hiện nay, nhà ở đang có sự biến đổi mạnh về cả chất liệu xây dựng và kiểu dáng. Trong nhiều năm trở lại đây khi thành phố Sơn La ngày càng phát triển với nhiều công trình xây dựng, các nhà cao tầng, các trung tâm thương mại được mọc lên không gian sống của con người dần bị thu hẹp. Hình ảnh những bản dân tộc với những ngôi nhà sàn lấp ló sau rặng cây dần bị mất đi, đặc biệt ở những khu trong thành phố, ven thành phố. Trước đây người ta có thể cảm nhận được « bản trong phố » thì ngày nay dường như mọi thứ đã được hòa lẫn trong một không gian phố núi hiện đại. Người Thái hiện nay sống ở nhiều loại hình nhà cửa khác nhau và số lượng các nhà phi truyền thống đang dần chiếm ưu thế : nhà nhiều tầng, nhà mái bằng, nhà cấp 4, chỉ còn số ít nhà ở nhà sàn. Các ngôi nhà được xây dựng với nhiều kiểu kiến trúc hiện đại, khang trang, nội thất tiện nghi theo phong cách người Kinh. Hình ảnh những ngôi nhà sàn với bếp lửa, những chõ xôi, mâm tre…dần dần bị mai một.
Văn học nghệ thuật
Bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết. Ở loại hình di sản văn hóa phi vật thể này, người Thái không có các thể loại: hò, vè. Các di sản còn lại hầu như không còn nhiều, thể loại hát ru (ú lu) chủ yếu là bà ru cháu, mẹ ru con, những lời ru chủ yếu do người hát tự sáng tác (ứng tác), không có bài mẫu, vừa hát vừa nghĩ và đặt lời; Sử thi, trường ca được ghi lại trong những cuốn sách cổ, tuy nhiên người biết sử dụng không còn nhiều.
Người Thái có kho tàng truyện cổ dân gian, truyện thơ, ca dao dân ca,… với những tác phẩm nổi tiếng như: “Xống chụ xon xao”, “Khun Lú nàng Ủa”, “Tản chụ xống xương”, “Tản chụ xiết xương”,… người Thái rất yêu thích văn nghệ đặc biệt là hát dân ca (Khắp) và múa (Xòe). Trong các bản làng còn khá nhiều người biết hát, họ thường hát khi đi hỏi vợ, làm mối, hát đám cưới, các bài hát này chủ yếu hát theo hình thức ứng tác (vừa hát vừa nghĩ và đặt lời), hát đối, hát giao duyên, hát thơ (theo tác phẩm “sống chụ son sao” – Tiễn dặn người yêu); Hát tiễn hồn người chết...
Người Thái sử dụng nhạc cụ truyền thống chủ yếu: các loại sáo (pí), trống, chiêng, khèn bè, chũm chọe. Dùng sáo, khèn thổi để tỏ tình, đệm cho các bài hát dân ca. Vào những ngày lễ, hội người ta đánh trống, chiêng rộn ràng để múa vòng (xòe vòng). Hiện nay, việc sử dụng nhạc cụ dân tộc chủ yếu là các loại: trống, chiêng, chũm chọe… để làm nhạc đệm cho các điệu xòe. Một số điệu múa truyền thống vẫn được bảo tồn như: múa quạt, múa khăn, múa sạp, múa hoa, múa chai, múa quả bầu, múa nón... Mỗi bản thường có ít nhất từ 01 - 02 đội văn nghệ thường xuyên tập luyện và biểu diễn, là một trong những môi trường tốt để bảo tồn loại hình di sản này. Điệu múa xòe, múa sạp là những nét nghệ thuật đặc sắc của đồng bào Thái, được cả nước biết đến.
Người Thái không có nghệ thuật sân khấu, các loại hình ca, múa, nhạc được bảo tồn tương đối tốt, tuy nhiên một số điệu múa đã được cải biên, nâng cao, có sự tiếp thu một số tác phẩm múa của các dân tộc khác: Khơ mú, La ha…các làn điệu dân ca ngày càng ít được sử dụng, xu hướng của thanh niên hiện nay chủ yếu theo hiện đại: Nghe nhạc, hát từ đài, đĩa VCD, DVD, ti vi….
Tập quán xã hội
Bao gồm: luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ và các phong tục khác. Người Thái có nhiều tập quán xã hội mang đậm bản sắc tộc người. Hiện nay một số tập quán truyền thống vẫn được bảo lưu, một số tập quán đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp:Các luật tục đã được xây dựng thành hương ước để cả bản cùng thực hiện, hàng năm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp ; Các chuẩn mực đạo đức vẫn được giữ gìn: kính trên, nhường dưới, kính người già, yêu trẻ nhỏ… ; Các nghi lễ và phong tục truyền thống được bảo tồn tương đối tốt: lễ đầy tháng, lễ đặt tên, lễ cưới; lễ tang và một số nghi lễ khác…Tuy nhiên, một số phong tục đã được thay đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện đại. Ví dụ : của hồi môn trong đám cưới không còn phải chuẩn bị kỹ và nhiều như lễ cưới truyền thống; hình thức ở rể hầu như không còn; thời gian tổ chức đám ma được rút ngắn cho phù hợp với nếp sống mới… Nhưng các bước tiến hành các nghi lễ hầu như vẫn giữ nguyên phong tục truyền thống.
Lễ hội truyền thống
Người Thái không có nhiều lễ hội, lễ hội lớn nhất là như Xên Mường hoàn toàn mất hẳn, năm 2008 tỉnh Sơn La có tổ chức phục dựng lại lễ hội Xên Mường La của người Thái đen tại thành phố Sơn La nhưng sau khi phục dựng, lễ hội không được bảo tồn; lễ hội Xên bản: chỉ một số ít bản còn tổ chức 2 hoặc 3 năm một lần; một vài nơi còn tổ chức lễ hội Xên lẩu nó; Kin pang then, Hết Chá… đây là lễ hội của những người làm nghề thầy mo, thầy thuốc. Hiện nay, ngoài tết nguyên đán của dân tộc, nhân dân các bản đều lấy ngày 18/11 hàng năm (Ngày hội đại đoàn kết toàn dân) làm ngày hội lớn, cả bản tổ chức liên hoan ẩm thực, giao lưu văn hóa văn nghệ, chơi các trò chơi dân gian, thi đấu thể thao dân tộc…Bên cạnh đó, những năm gần đây, lễ hội Hoa ban được tổ chức hàng năm, kết hợp với lễ hội là các trò chơi dân gian truyền thống được phục dựng như tó má lẹ, ném còn, hội thi thêu khăn piêu… nhằm góp phần duy trì và giới thiệu những nét đặc trưng của văn hóa Thái tới các cộng đồng dân cư khác cùng sinh sống (tuy nhiên, đây không phải là hoạt động được tổ chức tại tất cả các địa phương trong tỉnh nên khả năng lan tỏa chưa đủ lớn)
Nghề thủ công truyền thống
Nghề thủ công truyền thống của người Thái vốn chỉ phục vụ cho nền kinh tế tự cung, tự cấp, không trở thành sản phẩm để trao đổi, không có các làng bản chuyên về nghề thủ công truyền thống. Do sự chi phối nhiều mặt của nền kinh tế thị trường và cuộc sống công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong đó phải kể đến sự tiện lợi, hình thức đẹp, giá thành phù hợp của các loại hình sản phẩm thủ công, bên cạnh đó, việc sản xuất các mặt hàng này theo phương thức công nghiệp hiện đại lại có tác dụng giải phóng sức lao động của con người nên hiện nay một số nghề thủ công truyền thống đã và đang bị mai một, đặc biệt là ở vùng I (thị trấn, thành phố).Cụ thể : Nghề đan lát mây tre, đan chài, đan lưới, nghề nhuộm chàm, nuôi tằm, dệt vải còn rất ít gia đình làm, một số rất ít gia đình đi mua sợi và len ở chợ về để dệt thổ cẩm. Mỗi bản chỉ còn lại một vài hộ còn dệt vải. Khăn piêu của người Thái Đen vẫn được thêu nhưng hiện nay chủ yếu dùng sợi len để thêu.Nghề rèn chỉ còn 1-2 hộ/ bản, thậm chí nhiều bản không có hộ nào làm; sản phẩm cũng không nhiều, chủ yếu là sửa chữa các loại dụng cụ đang dùng của gia đình và trong bản. Nghề đan chiếu chỉ còn một vài nhà. Nghề gốm chỉ còn duy nhất 01 gia đình làm tại vùng gốm Mường Chanh nổi tiếng đang làm để giữ nghề chứ không có hiệu quả kinh tế.
Tri thức dân gian
Bao gồm tri thức về thiên nhiên, đời sống con người, lao động sản xuất, y, dược học cổ truyền, ẩm thực, trang phục và các tri thức dân gian khác. Những tri thức dân gian hiện nay ít được sử dụng do đã áp dụng khá nhiều khoa học kỹ thuật tiến bộ vào lao động sản xuất: Tri thức về lao động sản xuất: Kỹ thuật dẫn thủy nhập điền vẫn được bảo tồn song song với việc tiếp thu kỹ thuật dẫn nước hiện đại; Về y dược học cổ truyền: Ngoài việc đến bệnh viện thì vẫn còn một số người biết bốc thuốc nam chữa bệnh, một số hộ gia đình vẫn cúng ma, gọi hồn khi bị đau ốm, đặc biệt là những gia đình gặp chuyện không may mắn. Về sử dụng lịch Thái: Hiện nay đa số người Thái vẫn sử dụng lịch của mình để xem ngày cúng cơm cho bố mẹ, ngày cưới hỏi, làm nhà…tuy nhiên chỉ có những người biết chữ Thái, thầy mo mới biết xem ngày, tháng cụ thể, còn những người bình thường chỉ xem theo trí nhớ của mình để cúng cơm…
Về ẩm thực
Người Thái có rất nhiều món ăn đặc sắc được chế biến từ lương thực, thực vật; động vật, thủy sản… ngoài ra họ còn dùng nhiều loại côn trùng để chế biến món ăn: dế mèn, châu chấu, bọ sít, niềng niễng… Họ có nhiều phương thức để chế biến các món ăn: Nướng, đồ, làm khô, làm mắm…họ cũng dùng rất nhiều loại gia vị để chế biến món ăn, vừa ngon miệng, vừa đảm bảo sức khỏe. Ẩm thực của người Thái được bảo tồn tương đối tốt về cả cách thức chế biến, các loại thực phẩm, gia vị lẫn phong cách đón tiếp khách. Người Thái vẫn yêu thích các món ăn của dân tộc mình và tự nguyện gìn giữ, bảo tồn. Hiện nay, một số món ăn của người thái đã trở thành các sản phẩm để giới thiệu tại các nhà hàng, khách sạn, phục vụ khách du lịch đến Sơn La và được quảng bá ở một số tỉnh, thành phố trong cả nước. Tuy nhiên, một số gia đình không còn giữ gìn cách chế biến truyền thống trong các bữa ăn hàng ngày, kể cả trong tiếp đón khách, thậm chí các món ăn trong đám cưới cũng đã tiếp nhận ảnh hưởng “đậm đặc” phong cách ẩm thực của người Kinh.
Biến đổi trong món ăn của người Thái có xu hướng đáp ứng tính tiện dụng và sự đổi thay về sản xuất, thị trường và môi trường tự nhiên. Nguồn lương thực và thực phẩm thay đổi khiến cơ cấu bữa ăn và món ăn của người dân cũng thay đổi. Nhiều món ăn truyền thống mất đi do không còn nguyên liệu, nhất là những món ăn khai thác từ tự nhiên. Một số món ăn ít được chế biến do cầu cầu kỳ, tốn thời gian.
Đây là một cuốn sách rất hay cho những bạn mới bắt đầu nghiên cứu về nhân học. Nó trang bị một hệ thống phương pháp cho các bạn khi làm việc ở thực địa, với phương pháp quan sát tham dự, sự trở đi trở lại, tìm kiếm phản hồi ra sao... Do tác giả là một nhà nhân học có nhiều năm nghiên cứu ở châu Phi nên trong chừng mực một cuốn sách nhỏ, người đọc cũng tìm thấy những tư liệu và đồng thời ở đó là cách tiếp cận một địa bàn ở châu Phi. Mặt khác, nó bắt đầu hướng tới việc định hình lý thuyết cho các bạn.